1) Tổ chức Y tế Thế giới (WHO): tiền tài
trợ của (Bill) Gates Foundation (tư nhân) đứng thứ 2 toàn cầu, nhiều hơn 190 quốc gia khác.
2) Cục Quản lý dược Mỹ (FDA): các hãng
dược (tư nhân) chi
tiền cho FDA khoảng2,8 TỈ USD/ năm, chiếm 46% toàn bộ ngân sách hoạt động
(gần một nửa)!
- ‘Phí quản lý’ này bắt đầu xuất hiện và làm hủ
hóa FDA từ năm 1992.
3) Viện Dị ứng và Bệnh truyền nhiễm quốc
gia Mỹ (NIAID, cơ quan của Bộ Y tế): sở hữu một phần bằng sáng chế vaccine covid, cuối năm 2022 đã nhận 400 TRIỆU USD tiền bản quyền chỉ riêng từ Moderna (chưa rõ các hãng
khác).
4) Ngành dược đã ăn trên xương máu dân
chúng trong 3 năm đại dịch thổi phồng vừa qua.
1) Tổ chức Y tế Thế giới (WHO): tiền tài trợ của (Bill) Gates
Foundation (tư nhân) đứng thứ 2 toàn cầu, nhiều hơn 190 quốc gia khác.
Tại
mục 2.4 bài 36, người viết đã chỉ ra báo cáo năm 2017 cho thấy Gates Foundation (một tổ chức tư nhân do
nhà tài phiệt Bill Gates lập ra) là nhà tài trợ lớn thứ 2 thế giới của Tổ chức
Y tế Thế giới (WHO), chiếm
đến 14% tổng tài trợ,
nhiều hơn cả 198 quốc gia, tổ chức khác cộng lại (13%)!
Hiện
tại, báo cáo trên website của WHO cho thấy rằng trong hai năm 2021-2022, Gates
Foundation vẫn là nhà tài trợ lớn thứ 2 của WHO, tức là nhiều hơn 190 quốc gia thành viên khác!
- Và GAVI
(một chương trình chuyên thúc đẩy vaccine với Gates Foundation là nhà tài trợ lớn thứ 2) cũng là nhà tài trợ lớn thứ 6 của WHO!
Như
vậy, Bill Gates, một nhà tài phiệt, hay Gates
Foundation, một tổ chức của những nhà tài phiệt (núp bóng từ thiện), có một ảnh hưởng to lớn lên
cái gọi là Tổ chức Y tế Thế giới, cơ quan đã 2 lần thổi phồng dịch bệnh và thúc đẩy
vaccine (bài 46, mục 20/4/2023).
(xem thêm bài 36, mục 2.3 về lợi ích của Bill Gates trong ngành dược)
2) Cục Quản lý dược Mỹ (FDA): các hãng dược (tư nhân) CHI TIỀN
cho FDA khoảng 2,8
TỈ USD/ năm,
chiếm 46% toàn bộ ngân sách hoạt động (gần một
nửa)!
Tài
liệu “FDA at a Glance” (file
pdf) là báo cáo của
FDA, cho biết rằng trong năm 2021, tổng chi tiêu của FDA là 6,1 tỉ
USD, trong đó có 3,3 tỉ USD từ ngân sách chính phủ (màu xanh), còn 2,8 tỉ USD là tiền từ các hãng dược (màu vàng), chiếm 46%! Chi tiết như hình:
Cuối
năm 2022, tài liệu “FDA Budget: Fact Sheet” (trang 4) tiếp tục cho biết rằng năm
2022, tiền FDA nhận từ các hãng dược là 2,881 tỉ USD,
vẫn chiếm 46% trong tổng số 6,248 tỉ USD.
Việc
FDA thu tiền từ các hãng dược (không chỉ dược phẩm, mà cả những trang thiết bị, sản phẩm y tế…) mà họ kiểm duyệt bắt đầu diễn ra từ năm 1992.
Biểu đồ dưới đây trích từ trang 3 của tài liệu trên, thể hiện nguồn thu của FDA, trong đó màu xanh
là ngân sách chính phủ cấp (Budget Authority), còn màu xám là tiền thu từ các
hãng dược (User Fees):
Từ năm 1992: khi FDA cấp phép cho 1 loại thuốc nào đó, và thuốc đó bán ra thị
trường, người tiêu dùng mua thuốc đem lại lợi nhuận cho hãng dược, thì hãng dược
sẽ trích tiền gửi cho FDA, gọi là “phí người dùng” hay “phí
quản lý”!!! Bất cứ ai khách quan đều sẽ nhận
thấy rằng: đây là sự MÂU THUẪN LỢI ÍCH rất rõ ràng, và cái “phí người dùng” này
không khác gì một dạng “hoa hồng” hay “lại quả” công khai cả.
- Thay vì không nhận tiền (trước 1992),
thì FDA sẽ khách quan kiểm tra thuốc, nếu không hiệu quả hay có vấn đề về an
toàn thì sẽ nhanh chóng gạt bỏ.
- Từ năm 1992, việc nhận tiền sẽ thúc
đẩy FDA cấp phép dược phẩm (bao gồm vaccine) để nhận được “phí quản lý”, có thể
bất chấp tính an toàn và hiệu quả. Đó là chuyện ĐƯƠNG NHIÊN SẼ XẢY RA với cơ chế thu tiền này!!
Viện
Dị ứng và Bệnh truyền nhiễm quốc gia Mỹ (NIAID) là cơ quan của Bộ Y tế Mỹ có
Anthony Fauci là cựu giám đốc. Tại mục ngày 26/4/2022 đã chỉ ra tài liệu cho
thấy ít nhất 6 nhân sự thuộc NIAID được NIH xác
nhận là có tham gia vào bằng sáng chế liên
quan đến vaccine mRNA Moderna. Mỗi người này nhận hàng trăm ngàn đô-la Mỹ mỗi năm khi vaccine được bán ra.
- Trước đó có chi hay không và chi bao
nhiêu thì không nói rõ, nhưng có nói rằng tương lai sẽ chi cho NIAID đều đặn
theo % trên doanh số vaccine bán được!
Theo
một bài
báo ngày 23/03/2023, những nghiên cứu (hợp tác?) từ Bộ Y tế Mỹ dẫn đến hơn
4.400 bằng sáng chế trong 40 năm qua. Riêng Viện Y tế Quốc
gia Mỹ có 2% trong số này, tức là hơn 80 bằng sáng chế, và được trả đến 2
tỉ USD tiền bản quyền!!!
Điều
này có liên quan đến việc Mỹ tích cực thúc ép tiêm vaccine, từ già đến trẻ? –Không
có gì phải bàn cãi!
4) Kết luận: Ngành dược đã ăn trên xương máu dân chúng trong 3
năm đại dịch thổi phồng vừa qua.
- Hiện nay, những cơ quan (FDA, NIH…) đáng
lẽ phải độc lập để kiểm duyệt các hãng dược, thì lại trở thành những cánh tay nối dài của chính các hãng dược.
+ Không những có sự vận động hàng lang
khổng lồ (mục
26/12/2021), và các cá nhân làm việc trong các cơ quan này nhận tiền bạc
từ các hãng dược (cổ phần, bằng sáng chế, lương cố vấn…) mà ngay chính các cơ
quan này cũng chia sẻ lợi
nhuận tập thể với các hãng
dược!!!
+ Ngay Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) cũng
nhận một lượng lớn tiền tài trợ từ các nhóm tài phiệt quốc tế (thông qua Gates
Foundation, GAVI…).
+ Và “ăn cơm chúa, thì múa tối ngày”,
đó là chuyện mà ai cũng biết cả!
- Những thứ tưởng chừng vô lý không
thể xảy ra, đều trở nên “hợp lý” khi hiểu rằng những tổ chức này NHẬN HÀNG TỈ ĐÔ-LA TỪ
CÁC HÃNG DƯỢC:
+
châu Âu chỉ có 450 triệu người nhưng đặt mua 4,5 tỉ liều vaccine, gấp 10 lần (bài
45, mục 14/10/2022)
+
FDA duyệt vaccine lưỡng trị khi không có thử nghiệm trên người mà chỉ thử nghiệm
trên 8 con chuột (bài
46, mục 20/4/2023)
+ vaccine covid nguy hiểm gấp 50 lần vaccine cúm (bài
42), đã có hàng
ngàn nghiên cứu về tác
hại và hàng triệu người tử vong (bài
48), với hàng ngàn bác sĩ, chuyên gia khắp thế giới đang lên tiếng
phản đối (bài
53) mà vẫn không bị thu hồi!
+ …
- Ngành dược đã và đang ăn trên xương máu
con người trong nhiều năm qua, và với sự tiếp tay của chính các cơ quan quản lý
y tế toàn cầu!!!
1) Mới: Thuốc chống ói cho phụ nữ mang
thai (dicyclomine) tăng nguy cơ ung thư ruột cho đứa con nhiều năm sau khi sinh
ra!
Dicyclomine
(hay dicycloverine) là một hoạt chất trong các loại thuốc giảm co thắt ruột, đau bụng… từng được
sử dụng rất phổ biến để chống ói/ ốm nghén cho phụ nữ mang thai.
- Bendectin là một loại thuốc
chứa Dicyclomine, từng bán rất phổ biến những năm 1950-1970, nhưng đến năm 1983
bị thu hồi vì không đảm bảo an toàn.
- Tuy nhiên, hoạt chất Dicyclomine
thì vẫn được bán rộng rãi trong các thuốc biệt dược khác, và không có thông tin cảnh báo cho phụ nữ
mang thai.
- Nghiên cứu cho biết: khi bà mẹ
mang thai dùng thuốc chống ói (ốm nghén)
Bendectin chứa hoạt chất DICYCLOMINE, thì khi
trưởng thành, đứa con có tỉ lệ ung thư đại trực tràng cao GẤP 3 LẦN (3,38) so với bình thường (không
uống thuốc này).
- Ngoài bài báo được dịch và
đăng lại trên, chưa có bất cứ 1 cảnh báo chính thức nào(từ những cơ quan có trách
nhiệm) về vấn đề này.
- Việc cần làm chính là: tạm ngưng bán tất cả thuốc chứa dicyclomine; cảnh báo rộng rãi đến toàn
thể người dân và tất cả các bác sĩ, dược sĩ; đồng thời yêu cầu các hãng dược phải
ghi thêm nội dung cảnh báo vào tờ thông tin của thuốc.
b) Một vài vấn đề quan trọng cần lưu ý thêm:
- Dicyclomine
chỉ là một loại thuốc chống ói, một vấn đề rất nhỏ, và có
thể được giảm nhẹ bởi nhiều cách khác nhau, nhưng tác hại
gây ung thư ruột là một tác hại nghiêm trọng, đe dọa tính mạng người
bệnh!
- Dicyclomine được phát minh từ năm 1945, và đã được bắt rộng rãi trong những
năm 1950s 1960s, nhưng đến tận năm 2023, tức là sau khoảng 70 năm, người ta mới
phát hiện ra nguy cơ gây ung thư của nó!
(xem lại bài
ngày 22/02/2023 bên dưới, để thấy rằng Ranitidine cũng đã được che
giấu nguy cơ gây ung thư và bán suốt 40 năm; và thậm chí là sau khi có bằng chứng
và thế giới tiến hành thu hồi toàn bộ từ 2020, thì Việt Nam cũng chưa có động
thái gì)
- Tác hại của thuốc không thấy
ngay lập tức,
và không
trực tiếp lên
người mẹ mang thai, mà lại gây nguy cơ ung thưcho đứa con,hàng chục năm sau!
Đó chính là chỗ nguy hiểm của hóa dược: tác hại có thể không được
nhìn thấy ngay lập tức, thậm chí chưa chắc gây hại cho người uống, mà lại gây hại cho
thế hệ sau.
2) Bài học từ Thảm họa đen tối của lịch
sử y dược: Thuốc chống ói giảm ốm nghén (thalidomide) gây tử vong/ dị dạng cho 10.000+
trẻ sơ sinh!
Trong bài
báo về dicyclomine phía trên của báo Sức khỏe đời sống (dịch từ
bài của ĐH y Houston), có nhắc đến THALIDOMIDE, thảm họa đen
tối của ngành dược.
- Thalidomide là một hoạt chất được chế tạo
vào năm 1952, thuốc này trở nên nổi tiếng, được xưng tụng như “thần dược” hay “thuốc trị bá bệnh”, được
dùng rất phổ biến để chống ói, giảm ốm nghén cho phụ nữ mang thai.
- Tuy nhiên, sau đó, ở các nước
dùng Thalidomide, tình trạng trẻ em sinh ra bị dị tật, co rút tay chân tăng đột biến, và đến năm
1972, người ta đã chứng minh được đó là do Thalidomide gây ra.
(Ảnh: Wikipedia)
- Tuy nhiên, Công ty dược
Gruenenthal (sản xuất thuốc này) vẫn chối cãi rằng họ đã làm hết sức các nghiên
cứu, và sự việc này là ngoài ý muốn. Đến tận ngày 31/8/2012, tức là sau 50 năm, thì hãng dược này mới đưa ra một lời
xin lỗi sáo rỗng!
- Sau này, người ta ước tính
được đã có ít nhất 2000 trẻ em tử vong và 10.000 trẻ
bị dị tật
do thuốc này, và đó là con số chưa đầy đủ.
- Và đặc biệt là: ngoài việc không
sử dụng cho phụ nữ mang thai, thìhiện tại thuốc này vẫn được dùng điều trị
các bệnh khác!(nó có gây ra những tác dụng phụ nào khác nữa không, thì chỉ có Trời
biết)
3) Nhận định:
a) Hóa dược và chất độc màu
da cam:
- Trong bài ngày 22/02/2023 bên dưới, người viết đã nói về chuyện RANITIDINE cũng đã được che giấu nguy
cơ gây ung thư và bán suốt 40 năm. Và thậm chí là sau khi có bằng chứng và thế giới tiến
hành thu hồi toàn bộ từ 2020, thì Việt Nam cũng chưa có động thái gì.
- Trong bài này, THALIDOMIDE là một thảm
họa đã được công nhận, không thể chối cãi, dù nhà sản xuất đã phủ nhận trách nhiệm và chỉ nói
lời xin lỗi sau 50 năm. Đó chính là “ĐẠO ĐỨC CỦA NGÀNH DƯỢC”.
- Sự kiện thalidomide rất giống
chất
độc màu da cam, chỉ hơi khác là 1 bên là hóa chất, và 1 bên là hóa
dược!
- Ngay cả DICYCLOMINE cũng có hơi hướm của chất độc
màu da cam ở chỗ tác hại trực tiếp lên người uống là khó phát hiện, nhưng
lại gây tác hại lên thế hệ tiếp theo!
b) Lợi nhuận và trò chơi cò
quay Nga:
“Hóa dược” hay “thuốc tổng hợp”
là một ngành làm giàu trên xương máu của con người.
- Ngành này chỉ mới xuất hiện
từ khoảng
150 năm trước, xuất phát từ các công ty nhuộm (dệt may), và sản xuất thuốc từ dầu
hắc, phụ phẩm của than và dầu mỏ. (bài
báo khoa học tham khảo)
- Thay vì tìm hiểu và bào chế
những dược chất có sẵn trong cây cỏ, thiên nhiên, như trong y học truyền thống trải dài
suốt lịch sử loài người, thì họ luôn muốn tạo ra những hóa
chất nhân tạo mới.
- Lý do của việc đó chính là
những chất có sẵn trong tự nhiên thì không cấp bằng sáng chế được, do đó sẽ KHÔNG CÓ LỜI NHIỀU.
- Trong bài
27, người viết đã
chỉ ra rằng: các thuốc như Ivermectin, Hydroxychloroquine… đã bị phủ nhận khả năng phòng
chống covid, bởi vì những thuốc đó đã hết hiệu lực bằng sáng chế, trở nên cực kỳ
rẻ và không còn đem lại lợi nhuận. Thay vào đó, người ta cổ xúy
cho những thứ thuốc vô dụng, nguy hiểm như Remdesivir, Molnupiravir, Paxlovid…bởi vì chúng đắt tiền và
mang lại lợi nhuận khổng lồ từ hàng tỉ người nhiễm covid!!!
Và vấn đề nằm ở chỗ đó là các hóa chất mới do con người tạo ra, do đó:
- NGƯỜI TA KHÔNG BAO GIỜ CÓ THỂ LƯỜNG HẾT ĐƯỢC
MỌI TÁC DỤNG PHỤ CÓ THỂ XẢY RA.
- Và rõ ràng là chỉ cần vài
ví dụ nhỏ về ranitidine, thalidomide, dicyclomine… là đủ để minh họa vấn đề này.
Rất nhiều tác dụng phụ thảm khốc không thể lường trước được, và có thể tốn vài chục năm để phát hiện. Khi đó, đã có bao
nhiêu ngàn người hay triệu người đã phải gánh chịu hậu quả??
- Điều này có khác gì trò chơi cò quay Nga?
(Cò
quay Nga là trò chơi mà những người
tham gia sẽ sử dụng một khẩu súng lục ổ quay với một viên đạn duy nhất bên
trong, dí vào đầu mình và bóp cò theo lượt. Người còn sống (không quay phải ổ
có đạn) sẽ là người chiến thắng.)
Và vấn đề chưa kết thúc:
- Khi người ta bệnh (có thể là
hậu quả ngầm của một loại thuốc hóa chất nào đó), họ lại tiếp được được kê các loại
thuốc hóa chất khác, và điều đó lại có thể tiếp tục dẫn tới một căn bệnh khác. Đây
là một vòng lặp không hồi kết đối với người bệnh!
- Hãy xem Pfizer sau khi bán
vaccine hàng loạt đã mua công ty bán thuốc trị bệnh tim (do chính vaccine gây ra), và giờ đây lại tiếp
tục mua công ty bán thuốc trị ung thư! Và đương nhiên lợi nhuận kỳ vọng cao hơn số
tiền 50 tỉ đô-la bỏ ra mua 2 công ty trên, và khách hàng của họ sẽ là hàng tỉ người
đã tiêm vaccine covid.
c) Giải pháp?
Cách
giải quyết vấn đề chính là: chỉ sử dụng những chất có sẵn trong tự nhiên để
làm thuốc. (như y học cổ truyền, đã tồn
tại trong suốt lịch sử loài người)
- Khoa học có thể sáng tạo cũng có thể hủy
diệt.
- Áp dụng khoa học để tìm hiểu và chiết
xuất dược liệu có sẵn trong tự nhiên là cách làm đúng. (ví dụ: việc dùng
khoa học công nghệ chiết xuất hoạt chất artemisinin/ thanh-hao-tố, từ cây ngải
cứu để trị bệnh sốt rét và ký sinh trùng, đem về giải Nobel 2015 cho bà Đồ U U.
Chi tiết tại bài
40, mục 2.2.)
- Nhưng tạo ra những chất mới chưa có
trong tự nhiên, và không có khả năng xác định mọi tác dụng phụ có thể xảy ra, đó
là con đường gia tăng bệnh tật và dẫn đến diệt vong!
4) Vaccine covid và thai nhi:
Vaccine
covid giống Dicyclomine ở chỗ là khi được tung ra thị trường, đều ghi là “không
có thông tin tác dụng thuốc đối với phụ nữ mang thai”, nhưng người ta vẫn khuyến
khích phụ nữ mang thai đi tiêm!
Trong
khi đó:
- Trong bài
48, mục ngày 05/05/2022, người viết đã chỉ ra nghiên cứu khoa học
lẫn tài liệu biodistribution của Pfizer cho thấy vaccine mRNA theo máu đi khắp
các nơi trong cơ thể, kể cả buồng trứng phụ nữ và tinh
hoàn đàn ông!
- Trong bài
48, mục ngày 21/10/2022 và trước
tháng 10/2022, người viết đã chỉ ra các bằng chứng quan trọng,
bao gồm nghiên cứu khoa học lẫn báo cáo của Pfizer, cho thấy rằng vaccine
covid có tỉ lệ gây hại lên thai nhi cao.
Việc tiêm vaccine cho phụ nữ mang thai cũng không khác gì trò chơi cò
quay Nga; và sau 5, 10 hay 50 năm, nếu vaccine covid có trở thành một thảm họa đen
tối gấp 1000 lần Thalidomide, thì cũng không phải chuyện lạ!
1) Hoạt chất Ranitidine
(thuốc Zantac, trị ợ nóng, khó tiêu, loét/ dư axít dạ dày...) tự động chuyển thành chất
NDMA gây UNG THƯ trong quá trình lưu trữ/ vận
chuyển/ sử dụng.
-
FDA đã yêu cầu thu hồi TẤT CẢ thuốc có ranitidine vào năm 2020. Đến năm 2022, nghiên cứu
khoa họcXÁC NHẬN ranitidine tăng nguy cơung
thư gan, phổi, dạ dày, tuyến tụy, bàng quang từ 17-43%!!!
- Trong khi
đó, Việt Nam chỉ thu hồi 11 loại vào năm
2019, và KHÔNG CÓ cập nhật việc thu hồi TẤT CẢ thuốc
này sau đó!
- Nghiêm trọng hơn vụ VN Pharma!
2) Hồ sơ tòa án: Hãng dược GSK (Glaxo) ĐÃ BIẾT nguy cơ thuốc này gây ung thư từ 40 NĂM TRƯỚC, nhưng CHE
GIẤU và tiếp tục BÁN!
- Hơn
70.000 người khởi kiện GSK, Pfizer, Sanofi vì bán loại thuốc nguy hiểm
này!
3) GSK mua công
ty bán thuốc trị ung thư. Tương tự việc Pfizer mua công ty bán thuốc tim
mạch!
4) Nhận định: Bao nhiêu người đã bị ung thư trong hơn 40 qua, chỉ vì loại thuốc này? Và còn bao nhiêu loại thuốc nữa?
1) Hoạt chất Ranitidine
(thuốc Zantac) tự động chuyển thành chất NDMA gây UNG THƯ trong quá trình lưu
trữ/ vận chuyển/ sử dụng.
Năm 2019:
Tháng
10/2019, báo chí Việt Nam có đăng tin về việc 11 loại thuốc chứa hoạt chất Ranitidine bị
yêu cầu thu hồi, vì “chứa tạp chất N-nitrosodimethylamine (NDMA)
vượt ngưỡng cho phép và có nguy cơ gây ung thư.” (biệt dược phổ biến là Zantac,
một loại thuốc giảm ợ nóng, đầy hơi, khó tiêu, loét dạ dày...)
Điều đáng lưu
ý là Cục Quản lý dược “yêu cầu các cơ sở sản xuất thuốc chứa dược chất
Ranitidine chỉ được đưa vào sản xuất thuốc các lô nguyên liệu dược chất
Ranitidine không có tạp chất
NDMA. Trường hợp lô nguyên liệu dược chất Ranitidine có tạp chất NDMA thì không được vượt quá giới hạn cho phép.”
-Điều này có nghĩa
là: Cục Quản lý dược cho rằng NDMA có trong thuốc này chỉ là tạp chất, và nếu
nguyên liệu Ranitidine không có hoặc chứa ít tạp chất NDMA, thì vẫn được bán,
và được dùng để sản xuất thuốc.
-Bài ‘Thuốc
dạ dày chứa ranitidine dễ gây ung thư’ của báo Tuổi trẻ thể hiện rõ việc này.
Trong bài báo có hình của Umetac-150 và Ratidin tại nhà thuốc có Ranitidine không
có trong danh sách bị thu hồi, và “Xem danh sách này, chúng tôi thấy có
những loại thuốc trong danh sách có mặt ở VN, vì vậy khả năng danh sách
thu hồi thuốc chứa ranitidine do tạp chất ở ngưỡng cao chưa dừng lại ở 11 loại
thuốc như vừa qua”. (Tức là: một số thuốc có tạp chất ngưỡng cao vẫn không có trong danh sách thu hồi)
-“Mức độ NDMA trong
ranitidine tăng lên ngay cả trong điều kiện bảo
quản bình thường và NDMA đã được phát hiện tăng đáng kể trong các mẫu được bảo quản ở nhiệt độ cao hơn, bao gồm cả nhiệt độ mà
sản phẩm có thể tiếp xúc trong quá trình phân phối và xử lý của người tiêu
dùng. Thử nghiệm cũng cho thấy sản phẩm ranitidine càng cũ, hoặc khoảng thời
gian kể từ khi nó được sản xuất càng lâu thì mức
độ NDMA càng cao. Những điều kiện
này có thể làm tăng mức độ NDMA trong sản phẩm ranitidine vượt quá giới hạn lượng tiêu thụ hàng ngày có thể chấp nhận được.”
-“Với thông báo
ngày hôm nay, FDA đang gửi thư tới TẤT CẢ các
nhà sản xuất ranitidine yêu cầu họ rút sản phẩm của mình ra khỏi thị trường.
FDA cũng khuyên người tiêu dùng đang dùng ranitidine OTC NGỪNG dùng bất
kỳ thuốc viên hoặc thuốc lỏng nào họ hiện có,
VỨT BỎ chúng đúng cách và không mua thêm…”
Theo bản
tin của hãng luật Chalik, thì sau thông cáo này của FDA, hầu hết các
nước như Mỹ, châu Âu, Úc, Canada… đều đã thu hồi và ngưng cấp phép ranitidine.
-Nghiên cứu thực
hiện xem xét hơn 17.000 bệnh nhân bị ung thư bàng quang trong hơn 10 năm (từ
1999-2011), và phát hiện rằng: người có dùng ranitidine
tăng 22% nguy cơ ung thư bàng quang, và nếu dùng hơn 3 năm thì nguy cơ tăng
43%!!!
-Nghiên cứu xem xét
trên 55.000 người, và XÁC NHẬN rằng ranitidine gây ung thư trong thực
tế đời sống, cụ thể như sau: tăng
22% nguy cơ ung thư gan, 17% nguy cơ ung thư phổi, 26% nguy cơ ung thư dạ dày, 35%
nguy cơ ung thư tuyến tụy!!!
Việt Nam:
Tuy nhiên,
việc tìm kiếm trên Google, với khoảng thời gian từ ngày 01/01/2020 đến 22/02/2023
KHÔNG CÓ BẤT
CỨ CẬP NHẬT NÀO TỪ CƠ QUAN QUẢN LÝ DƯỢC CỦA VIỆT NAM về vấn đề này!
Chỉ có duy
nhấtmột
bài viết của BV nhi Đồng Nai vàmột
bài báo của BV Từ Dũ tháng 6/2021 là cảnh báo chuyện này, và cũng cho biết “Hiện nay, Cục quản lý Dược vẫn chưa có thông báo về việc
rút khỏi thị trường tất cả chế phẩm chứa ranitidin.” Các thông tin
thêm từ bài báo như sau:
-“Ngày
01/4/2020, FDA đã yêu cầu các nhà sản xuất thu hồi tất cả các sản phẩm chứa
ranitidin trên thị trường và khuyến cáo các chuyên gia y tế và bệnh nhân ngưng
sử dụng các chế phẩm ranitidin (thuốc kê đơn và thuốc không kê đơn)”
-“Ngày
30/4/2020, Cơ quan quản lý Dược phẩm Châu Âu (EMA) xác nhận đình chỉ tất cả
thuốc chứa ranitidin trên toàn liên minh Châu Âu.”
Hiện tại kết quả tìm kiếm các thuốc Zantac/ ranitidine trên mạng vẫn thấy rất nhiều. Các thông tin vẫn xuất hiện như chưa từng có công bố về sự nguy hiểm (gây ung thư) của loại thuốc này!
Lưu ý rằng: trên thị trường còn có nhiều hãng dược Việt Nam sản xuất thuốc có ranitidine, nhưng không hề có trong danh sách 11 thuốc bị thu hồi. Là do các thuốc này ít tạp chất hơn các thuốc của Đức, Anh, Canada, Ý… hay là do nguyên nhân nào khác??
Tóm tắt mục 1:
-Năm 2019, Việt
Nam thu hồi 11 loại thuốc có ranitidine, nhưng không có bất cứ thuốc Việt Nam
nào trong danh sách, và có thể còn nhiều thuốc nước ngoài cũng không có.
-Năm 2020, FDA cập
nhật thông tin, xác định rằng ranitidine tạo ra NDMA (chất gây ung thư)
trong điều kiện bình thường, và bắt buộc thu hồi TẤT CẢ các thuốc có chứa
ranitidine.
-Năm 2021-2022, các
nghiên cứu quy mô lớn đều cho thấy rõ ranitidine gây tăng ung thư, dù việc
sử dụng do bác sĩ chỉ định.
-Đến thời điểm hiện
tại, chưa thấy Việt Nam cập nhật thông tin, thông cáo và thu hồi thuốc.
2) Hồ sơ tòa án: Hãng dược GSK (Glaxo)
ĐÃ BIẾT nguy cơ thuốc này gây ung thư từ 40 NĂM TRƯỚC, nhưng CHE GIẤU và tiếp
tục BÁN!
-“Nhưng Zantac thì không. Vào năm 2019, loại thuốc này
bị phát hiện nhiễm độc chất có thểgây ung thư
ở mức độ cao… Chất
độc được tạo ra bởi chính ranitidine… Chất gây ung thư, được gọi là
NDMA, đã từng được thêm vào nhiên liệu tên lửa và hiện chỉ được sử dụng để
gây ung thư ở chuột thí nghiệm… lượng NDMA quá mức trong ranitidine—và nó được tạo ra nhiều hơn theo thời gian. Không
có phiên bản nào được xem là an toàn.
-“Từ khi ranitidine bắt đầu (1978) cho đến khi kết thúc, Glaxo đã được các nhà khoa học
và nhà nghiên cứu độc lập cảnh
báo về mối nguy hiểm tiềm tàng. Bản tường thuật về bốn
thập kỷ đó xuất hiện trong hàng trăm tài liệu, hàng nghìn trang,
nhiều tài liệu trong số đó chưa bao giờ được công khai. Bloomberg Businessweek đã
xem xét hồ sơ tòa án, nhiều hồ sơ vẫn còn được niêm phong, cũng như các nghiên
cứu, bảng ghi chép của FDA và các đơn xin cấp phép, được thu thập theo Đạo luật
Tự do Thông tin. Chúng cho thấy rằng FDA đã xem xét các rủi ro ung thư khi phê
duyệt ranitidine. Nhưng Glaxo đã không cung cấp
một nghiên cứu quan trọng. Trong nhiều năm, công ty này cũng tài trợ cho các nghiên cứu thiếu sót được
thiết kế để giảm thiểu mối lo ngại và LỰA CHỌN không
vận chuyển và bảo quản thuốc thường xuyên theo những phương pháp có thể làm giảm
nguy cơ. Glaxo đã bán một loại thuốc có thể gây hại cho con người, cố gắng giảm
bớt bằng chứng về điều đó và không bao giờ cảnh báo bất kỳ ai dù là nhỏ nhất.”
-“Hơn 70.000
người đã sử dụng Zantac hoặc các thuốc gốc tương tự đang kiện công ty tại
tòa án tiểu bang Hoa Kỳ vì đã bán một loại thuốc nguy hiểm và có khả năng nhiễm
độc… Các công ty khác đã bán Zantac
trong những năm sau đó, bao gồm Pfizer Inc. và
Sanofi, cũng là một phần của vụ kiện.”
-“Nhiều người đã
dùng Zantac trong nhiều tháng, đôi
khi nhiều năm, thậm chí nhiều thập kỷ.”
(Ghi chú:
Pfizer đã bán loại thuốc này từ 1998 đến 2006; Sanofi từ năm 2017)
Trích một số
đoạn về sự che giấu hơn 40 năm:
-“Vào tháng 11 năm 1980, một nhà phân tích dược phẩm nổi
tiếng tại một công ty đầu tư nổi tiếng của Anh đã gửi cho các nhà đầu tư một báo cáo có tiêu đề “Glaxo,
Ranitidine—Nguyên nhân gây lo ngại.” Glaxo đang chuẩn bị xin phép FDA để bán
ranitidine ở Mỹ. Nhà phân tích viết rằng nghiên cứu học thuật ở Mỹ cho thấy
rằng, trong những điều kiện nhất định trong dạ dày, ranitidine
có thể tạo thành một hợp chất nguy hiểm tiềm tàng. Các điều kiện là phản ứng hóa học mà Lijinsky và những
người khác đã mô tả; sản phẩm, một hóa chất có
thể gây ung thư.”
-Vào tháng 10 năm 1981, Glaxo công bố kế hoạch xây dựng một nhà
máy ở Bắc Carolina để sản xuất Zantac… Silvio De Flora, thuộc Đại học Genoa, đã
công bố kết quả của mình trên tạp chí y khoa Lancet của Anh cho thấy rằng khi ranitidine được trộn với nitrit, kết quả là “tác dụng độc hại và gây đột biến”… Giám đốc
điều hành Glaxo nhanh chóng liên lạc với De Flora. “Họ đã cố gắng thuyết
phục chúng tôi về sự an toàn của ranitidine,” anh ấy nói qua email. “Các
công ty dược phẩm không thích kiểu nghiên cứu này.”
-Vào tháng 3 năm 1982, Glaxo biết được một nghiên cứu khác
tiết lộ những nguy cơ tiềm tàng của ranitidine. Báo cáo, chỉ dài vài trang,
được gửi tới công ty bởi đối thủ của nó, Smith, Kline & French, nhà sản
xuất Tagamet. Các nhà nghiên cứu ở đó cũng đã kết
hợp ranitidine với các nồng độ nitrit
khác nhau và cũng đã quan sát thấy sự hình thành chất độc. Họ đặt tên nó cho
Glaxo: NDMA.
(là chất mà hiện tại đã được xác định là gây ung thư, và tự hình thành trong
các sản phẩm chứa ranitidine)
-Glaxo đã yêu cầu
một trong những nhà khoa học của mình tiến hành các thử nghiệm của riêng mình:
Richard Tanner, người làm việc trong bộ phận dược lý sinh hóa. Ông ấy đã thu
được kết quả tương tự. Ông đã xác định được tới 232.000
nanogram NDMA trong một số mẫu. Sau đó, khi FDA cho rằng một lượng
nhỏ NDMA có thể chấp nhận được trong bất kỳ loại thuốc nào, thì lượng đó là 96ng… Nhưng vào năm 1982, các tài liệu của tòa án cho thấy, Glaxo đã giữ bí mật nghiên cứu. Phó giám đốc
nghiên cứu lâm sàng ở Hoa Kỳ chưa bao giờ được thông báo về báo cáo của Tanner.
Cố vấn y tế cao cấp cho nghiên cứu về đường tiêu hóa đã không biết về nó. FDA
cũng vậy.
-Glaxo cũng biết
về một vấn đề nghiêm trọng tiềm ẩn khác với ranitidine. Nó không phải lúc nào
cũng ổn định. Thuốc nhạy cảm với nhiệt độ và độ ẩm, và khi tiếp xúc với quá nhiều
một trong hai chất này có thể bị biến chất. Đây là điều mà FDA sau này sẽ tập
trung vào: trong một số điều kiện nhất định, không nhất thiết là những điều
kiện khắc nghiệt, đôi khi ở nhiệt độ phòng bình
thường, ranitidine bắt đầu phân hủy. Điều đó tạo điều kiện để NDMA hình thành trong chính thuốc.
-Doanh số bán hàng
của Zantac tại Hoa Kỳ trong năm đầu tiên (1983) là khoảng 125 triệu đô la,
khiến nó trở thành một trong những lần ra mắt thuốc tốt nhất từ trước đến
nay… Năm đó (1986), Tagamet trở thành
loại thuốc tỷ đô đầu tiên. Năm sau, Zantac vượt qua Tagamet. Đến năm
1989, Zantac trị giá 2 tỷ USD. Nó chiếm một nửa doanh số bán hàng của
Glaxo và 53% thị trường thuốc chữa loét theo toa.
-Trong một số thử
nghiệm về độ ổn định, các viên thuốc màu trắng chuyển sang màu vàng và nâu.Glaxo muốn che giấu điều đó. Họ quyết
định sử dụng một lớp phủ màu hồng, làm bằng oxit sắt, cho những viên
thuốc mới. Sự đổi màu thường là dấu hiệu cho thấy viên thuốc đang xuống cấp.
Trong một số trường hợp, sự xuống cấp có thể gây ra các tạp chất nguy hiểm.
-Các vấn đề với sự đổi màu của Zantac vẫn tiếp diễn. Vào năm
2010, Andrew Searle, người giám sát các đánh giá rủi ro nhiễm độc gen tại GSK,
đã được yêu cầu điều tra lý do tại sao các phiên bản Zantac dạng tiêm lại
chuyển sang màu vàng. Cuộc điều tra
của Searle đã kiểm tra các tạp chất được biết là gây ra sự đổi màu vàng như
vậy. NDMA
được sử dụng trong phòng thí nghiệm có màu vàng,
nhưng anh ấy đã không kiểm tra nó. Vấn đề lại xuất hiện vào năm 2015 khi một cơ
sở sản xuất ở Trung Quốc báo cáo sự cố với viên thuốc Zantac bị đổi màu và
xuống cấp. GSK đã gửi cho các bác sĩ một lá thư nói rằng công ty không thể xác
định bất kỳ tạp chất cụ thể nào nhưng không thể xác nhận rằng những viên thuốc
đổi màu nâu có đáp ứng các tiêu chuẩn an toàn hay không. Không ai tìm kiếm NDMA. Trong một lời khai, Searle đổ lỗi cho
vấn đề lưu trữ không phù hợp.
-Vào tháng 9 năm 2019, FDA đã nhận được một tài liệu dài 19
trang đưa ra một số tuyên bố đáng báo động về ranitidine… Tháng 11 năm đó, một
giám đốc điều hành cấp cao của GSK đã viết cho các đồng nghiệp rằng: “Tất cả,
chúng tôi có một nhu cầu cấp thiết là xác định xem báo cáo nghiên cứu sau đây
có được gửi ở Liên minh Châu Âu và Hoa Kỳ hay không”. Cô ấy đang nói về báo cáo
của Tanner, và câu trả lời là không, nó đã không được nộp như một phần của bất
kỳ ứng dụng thuốc mới nào. Sau đó, GSK cuối cùng
đã bàn giao bản báo cáo đã được cất giấu từ năm 1982.
-Mãi cho đến tháng
10 năm 2021, FDA mới chia sẻ một số chi tiết cụ thể về những gì cơ quan đã phát
hiện, và sau đó cơ quan này không chia sẻ điều đó trong một bài báo đã xuất bản
mà trong một loạt bài giảng hàng tháng có tên là FDA Grand Rounds. Cơ quan này
cho biết, một viên ranitidine phiên bản bạc hà mát lạnh chứa 357ng NDMA khi nó được thử nghiệm ban đầu — gần gấp bốn lần giới hạn của FDA đối với bất
kỳ loại thuốc nào — và 931ng năm tháng sau đó.
3) GSK mua công ty bán thuốc trị ung thư.
Tương tự việc Pfizer mua công ty bán thuốc tim mạch!
Trong khi
thuốc Zantac do GSK bán gây ung thư, thì Bản
tin ngày 13/4/2022 của The Guardian cho biết GSK đã bỏ ra 1,5 tỉ bảng Anh để
mua công ty phát triển thuốc ung thư Mỹ là Sierra Oncology!
ĐÓ LÀ MÔ HÌNH KINH DOANH CỦA CÁC HÃNG DƯỢC NGÀY NAY.
4) Nhận định:
Ranitidine
(Zantac)là vụ việc NGHIÊM TRỌNG hơn vụ thuốc ung thư giả VN Pharma rất
nhiều.
-Lý do là vì thuốc H-Capita 500mg mà VN Pharma bán là giả mạo về xuất xứ, nhãn hiệu, nhưng hoạt chất vẫn đạt 97,5%.
-Trong khi đó, ranitidine
(Zantac) đã được xác định là TỰ SINH RA CHẤT
GÂY UNG THƯ trong quá trình lưu trữ, vận chuyển, phân phối… và đã được nghiên cứu khoa học XÁC NHẬN là tăng nguy cơ ung thư kể cả khi uống dưới chỉ định bác sĩ!
Nhưng đã
gần 3 năm kể từ khi có thông cáo của FDA Mỹ, lại không thấy bất cứ thông tin cập nhật gì ở việt nam về việc
thu hồi tất cả các thuốc chứa hoạt chất nguy hiểm này!
Và tệ hại hơn,
là các hồ sơ tòa án đã phanh phui ra được rằng các
hãng dược (GSK) đã phớt lờ nguy cơ, CHE
GIẤU BẰNG CHỨNG, và thậm chí là vận chuyển thuốc/ bảo quản không theo
cách an toàn, SUỐT HƠN 40 NĂM!
-Lưu ý rằng mô hình
cấp phép hiện tại là các hãng dược TỰ tổ chức nghiên cứu và đưa ra số liệu
cho biết thuốc của mình “hiệu quả và an toàn”, sau đó nộp đơn cho các cơ quan
quản lý dược, và các cơ quan này dựa trên số liệu được hãng dược cung cấp mà cấp
phép.
-Và phải nói thêm
là FDA được trích lợi nhuận bán thuốc
từ các thuốc mà cơ quan này phê duyệt, cũng như NIH
thường đứng tên chung trong bằng sáng chế thuốc, vaccine của các hãng dược!(sẽ được cập nhật sau)
-Chính mô hình này
xét duyệt và sự chia sẻ lợi ích dẫn tới hàng ngàn
chuyện dối trá, và đổi trắng thay đen của ngành dược!
BAO NHIÊU NGƯỜI ĐÃ BỊ UNG
THƯ TRONG HƠN 40 QUA, CHỈ VÌ LOẠI THUỐC NÀY? VÀ CÒN BAO NHIÊU LOẠI THUỐC NỮA?
Tính mạng
dân chúng nằm trong tay các hãng dược hám lợi, và những cơ quan quản lý, bác sĩ kém cỏi/ vô trách nhiệm!
------------------------------------------------
Cập nhật 18/12/2022:
GÓC TỐI/ SỰ DỐI TRÁ CỦA NGÀNH DƯỢC VÀ TÂY
Y
1)18 nghiên cứu
trong 20 năm chỉ ra: Y KHOA LÀ NGÀNH CÓ TỈ LỆ GIAN
DỐI CAO NHẤT so với các ngành khác!
2)Các nghiên
cứu cho thấy khoảng 50% NGHIÊN CỨU Y KHOA CÓ TÍNH DỐI
TRÁ!
3)Chính các Giáo sư, Tiến sĩ, Biên tập của các Tạp chí Y khoa tên
tuổi nhất thế giới… đã phải viết rằng: “KHÔNG CÒN
CÓ THỂ TIN gì nhiều vào nghiên cứu y khoa/ bác sĩ/ cơ quan y tế” và “Đã
đến lúc nhận định rằng NGHIÊN CỨU Y KHOA LÀ GIAN DỐI, trừ khi được chứng minh
khác đi”
4)Kết luận: TIỀN là nguyên nhân chính của tình trạng trên. Sự dối trá của ngành dược đạt đỉnh điểm với dịch covid.
-Nghiên cứu này tổng
hợp số liệu từ 18 nghiên cứu khác nhau được thực hiện từ năm 1986 – 2005, đánh
giá tỉ lệ làm giả, nhào nặn, bóp méo dữ liệu… trong nghiên cứu khoa học.
-Một trong số các
kết luận được đưa ra là: Y khoa/ Dược là ngành có tỉ lệ nghiên cứu GIAN DỐI CAO
NHẤT, so với các ngành khác!
-Nghiên cứu thực
hiện xem xét đến 526 thử nghiệm đối chứng ngẫu nhiên. Trong số đó, có 153 nghiên
cứu có kèm dữ liệu của từng người tham gia.
-Trong 526 thử
nghiệm, có 73 thử nghiệm sai dữ liệu (chiếm 22%) và 43 thử nghiệm bị lỗi
nghiêm trọng (chiếm 8%).
-Tuy nhiên, khi đi
sâu vào kiểm tra dữ liệu của những thử nghiệm có nộp dữ liệu từng người tham
gia, việc kiểm tra dữ liệu cho ra một con số kinh hoàng: có 67/153 thử nghiệm
sai dữ liệu (chiếm 44%) và 40/153 thử
nghiệm bị lỗi nghiêm trọng (chiếm 26%).
(Ghi
chú: chữ “false data” trong nghiên cứu được dịch là “sai dữ liệu”, và chữ “zombie”
được giải thích là “fatally flawed”, tức là “lỗi nghiêm trọng”, hoặc thậm chí là
thử nghiệm ma, tức là không hề tổ chức thực hiện!)
-Như vậy, có ít nhất 14%
và nhiều nhất là 70% thử nghiệm y khoa làm sai dữ liệu hoặc bị lỗi nghiêm trọng
(ảnh hưởng kết quả)!
Như vậy, từ
nghiên cứu chi tiết trên, và nhận định của Trưởng biên tập của 1 tạp chí y khoa
nhất nhì thế giới, ta có thể ước lượng rằng: khoảng
50% NGHIÊN CỨU Y KHOA LÀ DỐI TRÁ!
-Một ví dụ rất điển
hình chính là một nghiên cứu của CDC về viêm cơ tim đã được vạch trần bởi Gs.
Byram Bridle: trong khi dữ liệu xét nghiệm cho thấy sự bất thường, thì CDC lại trắng trợn kết
luận dối trá là người bệnh đã hồi phục! Chi tiết xem tại bài
48, cập nhật 10/12, mục 3.
-Một ví dụ khác,
chính là nghiên cứu về việc vaccine covid làm giảm tinh trùng ở người tiêm, và dù
dữ liệu cho thấy CHƯA HỒI PHỤC, thì báo cáo lại kết luận là THẤY CÓ SỰ HỒI
PHỤC! Chi tiết tại bài
48, cập nhật ngày 01/11.
-Một ví dụ khác, là
một nghiên cứu nói rằng tác dụng phụ của vaccine covid là do tưởng tượng (viêm
cơ tim, tử vong… là do tưởng tượng??). Chi tiết tại bài
38.
-Và đỉnh điểm của
sự dối trá là khi FDA phê duyệt vaccine lưỡng trị khi chỉ mới thử nghiệm trên 8
con chuột, không cần thử nghiệm trên người, và còn “treo đầu dê, bán thịt
chó” khi dùng kết quả thử nghiệm của vaccine lưỡng trị BA.1 để phê duyệt
vaccine lưỡng trị BA.4/5! Chi tiết xem bài
46, cập nhật 29/10.
-Và còn VÔ SỐ VÍ DỤ KHÁC…
3) Chính các Giáo
sư, Tiến sĩ, Nhà khoa học hàng đầu ngành Y phải nói là KHÔNG THỂ TIN TƯỞNG nghiên
cứu Y khoa nữa, và phải giả định chúng là DỐI TRÁ:
Năm 2009, Ts. Marcia Angell,
giáo sư trường Y Harvard (trường Y số 1 thế giới), trưởng biên tập tạp
chí khoa học New England Journal of Medicine NEMJ (tạp chí y khoa nhất nhì
thế giới) đã viết về việc không còn có thể tin được chính ngành y:
-Bà viết như sau: “Đơn giản là KHÔNG
CÒN CÓ THỂ TIN gì nhiều vào nghiên cứu lâm sàng
được công bố, hoặc dựa vào đánh giá của các bác sĩ
‘được tín nhiệm’ hoặc các hướng dẫn y tế (của cơ
quan) có thẩm quyền. Tôi không vui gì với kết luận này, mà tôi đã rút ra
được một cách chậm chạp và miễn cưỡng trong suốt hai thập kỷ làm biên tập viên
của Tạp chí Y học New England.”
-Đoạn văn trên được
viết trong một cuốn sách tên “Các
hãng dược và bác sĩ: Một câu chuyện hủ bại”, xuất bản lần đầu
năm 2009 (có thể nghe trên Apple Podcast tại
đây), nói về việc tiền bạc của ngành dược lũng đoạn các nghiên cứu y dược.
-Một điều hài hước
là gần 10 năm sau đó, John LaMattina, cựu giám đốc nghiên cứu của Pfizer, đã viết
1 bài báo công Ts. Marcia Angell, đăng
trên Forbes. Độc giả nên lưu ý rằng Ts. Angell là một nhà khoa học
có uy tín, còn Pfizer là một công ty dược gian dối đã từng BỊ PHẠT ĐẾN HÀNG TỈ ĐÔ-LA!!!
(chi tiết xem tại bài
45, cập nhật ngày 16/10) Một công ty gian dối công kích một nhà
khoa học, đó là mặt tối của thế giới hiện nay.
-Trích: “Nghiên
cứu sức khỏe dựa trên niềm tin. Các chuyên gia y tế và biên tập viên tạp chí
đọc kết quả của một thử nghiệm lâm sàng cho rằng thử nghiệm đã diễn ra và kết
quả đã được báo cáo trung thực… tôi nghĩ rằng có lẽ đã đến lúc ngừng giả định rằng nghiên cứu
đó có thật và được báo cáo một cách trung thực, và phải giả định rằng
nghiên cứu là gian lậncho đến khi có một số bằng chứng chứng
minh rằng nó đã xảy ra và được báo cáo một cách trung thực.”
-Trích: “Gian lận trong
nghiên cứu thường được coi là vấn đề của “những quả táo xấu”,
nhưng Barbara K Redman, người đã phát biểu tại hội thảo trên web khẳng định
rằng đó không phải là vấn đề của những quả táo xấu mà là vấn đề của những thùng
táo xấu nếu không muốn nói là của những khu rừng hoặc vườn cây ăn quả thối rữa.”
(Ghi chú: tức là sự gian lận trong y khoa không phải “vài con sâu”, mà là “một
bầy sâu”, thậm chí “một rừng sâu”)
-Trích: “Có lẽ
đã đến lúc chuyển từ giả định rằng nghiên cứu đã được tiến hành và báo cáo một
cách trung thực sang giả định rằng nó không đáng tin cậy cho đến khi có
một số bằng chứng ngược lại.”
(Nên xem thêm
phần bình luận ở bên dưới của bài viết, rất nhiều bình luận xác nhận sự gian dối
trong y khoa hiện nay. Và bởi vì The BMJ là tạp chí y khoa hàng đầu thế giới,
những người tham gia bình luận hầu hết đều là các nhà khoa học hoặc người làm trong
ngành y)
4) KẾT LUẬN:
-Với con số 50% tài liệu y
khoa sai sự thật, khi người ta tìm kiếm thông tin hay nghe thấy rằng
một loại dược phẩm là hiệu quả hay an toàn, thì xác suất đúng chỉ có 50%, bất chấp
thông tin đó đến từ đâu (báo cáo khoa học, cơ quan chức năng, bác sĩ…)!
Vaccine covid và các loại thuốc trong dịch covid chính là một ví dụ điển hình.
-Sự dối trá trong
nghiên cứu khoa học, đặc biệt là y khoa LÀ MỘT VẤN NẠN ĐÃ ĐƯỢC BIẾT RÕ bởi những người
trong cuộc, NHƯNG
LẠI KHÔNG ĐƯỢC THỪA NHẬN rộng rãi, vì nó liên quan đến lợi ích quá lớn. Bài
viết này dẫn chứng một loạt các nghiên cứu khoa học, cũng như các nhà
khoa học,biên tập của các tạp chí y khoa uy tín nhất thế giới, chỉ
ra ra vấn đề này.
oLưu ý rằng tất cả
những nhân viên chính phủ FDA, CDC, WHO… đều KHÔNG THỂ có uy tín khoa học
hơn những nghiên cứu và những nhà khoa học đã được trích dẫn.
-Lý do của vấn đề
rất dễ hiểu (nhưng rất nhiều người “không chịu hiểu”), và đã được các nghiên cứu
hoặc các nhà khoa học ở trên chỉ ra:
oMột lượng lớn các
nghiên cứu y khoa là do các hãng dược tự tổ chức thực hiện. (ví dụ:
Pfizer tự tổ chức thử nghiệm vaccine, thuê các công ty bên thứ ba tham gia. Và rồi
chính một giám đốc trong các công ty này là Brook Jackson đã đứng ra tố cáo
Pfizer gian dối trong thử nghiệm!)
oNếu không thực hiện
trực tiếp, các hãng dược này còn có thể tài trợ RẤT NHIỀU TIỀN cho các trường đại học để
thực hiện nghiên cứu. Và đương nhiên, khi đã nhận tiền, thì người ta dễ có
xu hướng ngụy tạo/ bóp méo dữ liệu để được các hãng dược hài lòng (nếu không
hài lòng, thì có nguy cơ không được thanh toán!).
oMột lượng lớn tiền
khác, sẽ được chi cho các cơ quan nhà nước, bằng vận động hành lang (lobby) hoặc chi tiền hợp đồng/ cổ phần… cho
các chuyên gia, bao gồm FDA, CDC… (chi tiết xem các phần bên dưới cùng
bài viết này)
oVà các cơ quan như
CDC, NIH… cũng thường tài trợ hoặc tự thực
hiện các nghiên cứu y khoa, và rất nhiều trong số đó nhằm củng cố cho chính
sách của chính mình. Và đó là nền tảng của sự dối trá. (chi tiết xem thêm các
bài viết khác, đặc biệt là bài
số 46)
oMột yếu tố khác,
là sự thao túng
của các tổ chức như Gates Foundation, tài trợ cho WHO, GAVI…
còn nhiều tiền hơn hàng trăm chính phủ khác trên thế giới. (tham khảo thêm phần
2 bài 36) Và đó là lý do của sự kiện WHO
đã thổi phồng dịch cúm 2009 để thu lợi hàng chục tỉ đô-la, và đã
và đang làm điều tương tự với dịch Covid, ở một quy mô lớn hơn!
oVà còn vô số những
yếu tố khác…
-Trong rất nhiều bài
viết trong blog này, người viết đã từng chỉ ra rất nhiều những nghiên cứu có vấn
đề, có sự dối trá, thậm chí là những sự dối trá cực kỳ trắng trợn của CDC và FDA.
oTrên thực tế, những
vấn đề viết trong bài này có thể mới với nhiều độc giả, nhưng KHÔNG THỂ MỚI với các tổ chức như WHO, FDA, CDC… bởi
vì các nghiên cứu về sự gian dối trong khoa học được trích dẫn ở trên đã có từ muộn
nhất là 1986, tức là 36 năm trước.
oVà với việc WHO đã
thổi phồng dịch cúm để trục lợi từ năm 2009, ta có thể KHẲNG ĐỊNH rằng CÁC TỔ CHỨC NÀY ĐANG THAO TÚNG KHOA HỌC ĐỂ TRỤC LỢI, MỘT
CÁCH CỐ Ý!
-Dịch
Covid chính là đỉnh điểm của sự dối trá,
sau rất nhiều năm dối trá tăng dần của ngành dược và Tây y.
oVì vậy, không những
không thể tiếp tục tin tưởng các tổ chức này, mà còn phải truy tố ra tòa để xử
lý! (tương tự câu chuyện Việt Á ở Việt Nam)
------------------------------------------------
Cập nhật 15/11/2022:
-Nghiên cứu khoa học:Vitamin B3 có thể gây tăng nguy cơ UNG THƯ!
-Một loại vitamin B3 tổng hợp được dùng phổ biến là Nicotinamide riboside (NR) lại làm tăng đáng kể nguy cơ UNG THƯ và có thể di căn đến não! (khi đến não là “hết thuốc chữa”)
-Nguyên văn: “Nicotinamide riboside (NR) is a form of vitamin B3… Our results demonstrate that NR supplementation results in a significant increase in cancer prevalence and metastases of TNBC to the brain.”
-Bài nghiên cứu cũng nói rõ rằng loại vitamin B3 này mặc dù có nhiều nghiên cứu về lợi ích điều trị, nhưng lại rất thiếu sự nghiên cứu đối với việc hấp thu vào tế bào và các mô!
-Nghiên cứu được thực hiện trên tế bào người lẫn chuột thí nghiệm.
Nguồn tham khảo:
-Tham khảo thêm bản tin ngày 12/11 (link tiếng Việt). Trong đó, phó GS Elena Goun của nhóm nghiên cứu cũng cho biết “Mặc dù NR đã được sử dụng rộng rãi ở người và đang được nghiên cứu trong rất nhiều thử nghiệm lâm sàng đang diễn ra cho các ứng dụng bổ sung, nhưng phần lớn cách thức hoạt động của NR là một hộp đen; nó không được hiểu rõ.”
-Người viết không phủ nhận lợi ích của vitamin với cơ thể, nhưng nhấn mạnh rằng các vitamin này nên đến từ các nguồn tự nhiên, đặc biệt là thực vật. Đối với các loại hóa dược tổng hợp, cần phải cẩn thận.
-Với lượng tiền khổng lồ của các hãng dược phẩm, việc vung tiền ra để có những nghiên cứu ca ngợi lợi ích 1 một chất nào đó là khá dễ dàng. Nhưng rõ ràng là các hãng dược này không mấy quan tâm đến những tác dụng phụ về lâu dài của các dược phẩm đó!!! Đây không chỉ là sự vô trách nhiệm, mà có thể gọi là vô nhân tính.
-Vitamin B3 như vậy. Vaccine covid có khác gì không?
------------------------------------------------
Cập nhật 26/4/2022: Mâu thuẫn lợi ích liên quan đến vaccine covid:
-Bộ trưởng quốc phòng Mỹ là thành viên của hội đồng quản trị của
Tenet Healthcare Corp, một công ty dược.
-Ít nhất 6 nhân sự thuộc NIAID của hệ thống y tế Mỹ có tham gia vào bằng
sáng chế liên quan
đến vaccine mRNA Moderna.
-Trang 183 đưa ra bằng chứng cho thấy Bộ trưởng quốc phòng Mỹ là thành viên của hội đồng quản trị của Tenet Healthcare Corp, một công ty dược, và ông này nhận 288.627 đô-la trong năm 2020! (lưu ý đây chỉ mới là thông tin được phát hiện)
-Trong một tài liệu Gov/ Big Pharma conflict (liên quan đến 1 vụ kiện khác), Renz Law cũng đưa ra một danh sách 6 nhân sự thuộc NIAID của hệ thống y tế Mỹ (với Anthony Fauci là giám đốc) ĐƯỢC NIH XÁC NHẬN là có tham gia vào bằng sáng chế liên quan đến vaccine mRNA Moderna. Mỗi người này nhận hàng trăm ngàn đô-la Mỹ mỗi năm khi vaccine được bán ra. Đây là một bằng chứng rõ ràng nhất về sự mâu thuẫn lợi ích lý giải tại sao chính phủ Mỹ đẩy mạnh tuyên truyền cho vaccine dù phải chi hàng tỉ đô-la!
------------------------------------------------
Cập nhật 04/3/2022: SỰ THAO TÚNG THÔNG TIN Ở TẦM QUỐC TẾ
-MỸ CHI 1 TỈ ĐÔ-LA chỉ để TUYÊN TRUYỀN QUẢNG CÁO CHO VACCINE COVID!
-Lợi
ích, tiền bạc của Bill Gates trong ngành dược.
-Sức mạnh mềm của Bill Gates đối với các tổ chức quốc tế (WHO, GAVI…)
-Bill
Gates và sự thao túng thông tin tầm quốc tế.
-Người
trong cuộc tố cáo Pfizer về việc gian lận và chỉnh sửa các số liệu liên quan
trong thử nghiệm vaccine.
Tháng
01/2021, Brook Jackson gửi đơn tố cáo Pfizer về việc gian lận trong thử nghiệm
vaccine và chỉnh sửa các số liệu liên quan! (Jackson là giám đốc vùng của Ventavia, một trong những
công ty được Pfizer thuê để tổ chức thử nghiệm vaccine)
-Tháng
11/2021, tạp chí khoa học hàng đầu về Y tế, The BMJ, cũng có bài về vấn đề này:
https://www.bmj.com/content/375/bmj.n2635. Tuy nhiên, Facebook đã kiểm duyệt và ngăn chặn bài của BMJ “vì mâu thuẫn với fact-check của
Facebook”. Người viết lưu ý rằng: BMJ là một tạp chí khoa học danh tiếng, còn
các fact-check về covid vô cùng dối trá, như đã chỉ ra nhiều lần trong các bài
viết trước. Việc Facebook ngăn chặn BMJ cho thấy rõ thêm điều này.
-Tuy nhiên, theo yêu cầu
của Chính phủ Mỹ, tòa án đã đồng ý không công khai các hồ
sơ này. Đến tận ngày 10/02/2021, tòa án mới cho công khai đơn tố cáo cùng với
hơn 400 trang vật chứngmà Jackson đưa
ra.
-Đơn tố cáo dài 81 trang. 400 trang vật chứng được chia làm 3 file: 1-10, 11-20, 21-29. Nhiều thông tin về sự dối trá của Pfizer có thể được làm rõ
hơn với hàng trăm trang vật chứng này.
------------------------------------------------
Cập nhật 29/12/2021:
-BẰNG CHỨNG không thể chối cãi Vaccine MMR làm tăng nguy cơ TỰ KỶ ở trẻ em,sự thao túng số liệu trong nghiên cứu.
-Sự bưng bít SUỐT 20 NĂM của chính phủ Mỹ.
Đến tận thời điểm hiện tại vẫn còn nhiều bài báo viết lại những thông tin cũ (thuộc dạng “fact-check”) phủ nhận vaccine MMR (vaccine kết hợp sởi, quai bị, rubella) làm tăng nguy cơ tự kỷ ở trẻ em. Bài này đưa ra bằng chứng KHÔNG THỂ CHỐI CÃI về vấn đề này, và không hề nói gì về “Andrew Wakefield. Bất cứ “fact-check” hay “phản biện” nào về vấn đề này mà có nói về “Andrew Wakefield”, thì đó là fact-check/ phản biện láo.
KHOA HỌC hiện tại ĐÃ XÁC NHẬN vaccine MMR thực sự làm tăng nguy cơ tự kỷ ở trẻ em (nhưng từng bị phủ nhận trong 1 thời gian dài). Và cho thấy rằng chính CDC Mỹ đã nhào nặn số liệu nghiên cứu và chính phủ Mỹ đã che đậy vấn đề này!
(Lưu ý rằng bài này không nhằm phủ nhận tác dụng hay phản đối vaccine MMR(lợi ích của nó có thể lớn hơn rủi ro). Nhưng sự thật, thì vẫn là sự thật, và người ta phải được biết rõ sự thật trước khi có thể cân nhắc lợi - hại.)
Vắn tắt vấn đề:
-Chính CDC Mỹ đã viết nghiên cứu năm 2004 cho biết vaccine không gây tăng rủi ro tự kỷ. Nhưng vào năm 2014, chính WILLIAM THOMPSON, chuyên gia cao cấp làm việc ở CDC từ năm 1998, ĐÃ TỰ THÚ, rằng chính ông và các đồng tác giả của nghiên cứu 2004 đã BỎ BỚT DỮ LIỆU, mà dữ liệu này cho thấy trẻ em dưới 36 tháng tuổi chích vaccine MMR bị tăng nguy cơ tự kỷ!
-Theo một văn bản năm 2015 của David Hibble, một nghị sĩ Úc, trình quốc hội, thì dữ liệu ban đầu của Thompson cho thấy nguy cơ tự kỷ TĂNG 69% do vaccine!
-Tờ The BMJ danh tiếng cũng có bài báo xác nhận vấn đề này, và cho biết thêm rằng:
oVào năm 1992, đã có 2 loại vaccine MMR bị thu hồi ở Anh, vì gây viêm màng não.
oViệc vaccine làm tăng nguy cơ tự kỷ được CP Mỹ biết đến và đãđược thừa nhận trong một số trường hợp.
o
Họ biết rằng vaccine có thể gây sốt dẫn đến tổn thương não, trong đó có tự kỷ. Nhưng trong các trường hợp kiện ra tòa/ bồi thường thiệt hại do vaccine, thì CP Mỹ chỉ thừa nhận là gây “TỔN THƯƠNG NÃO” chứ không thừa nhận là “TỰ KỶ” (một dạng chơi chữ).
oMột cuộc điều tra hồ sơ tòa án về bồi thường tổn thương do vaccine năm 2011 ở Mỹ cho thấy có 83 ca được bồi thường vì tự kỷ. (nếu thật không gây bệnh sao lại có chuyện bồi thường?)
oNhiều nghiên cứu khác nhau sau đó đã chỉ ra rằng NHÔM(tá dược) và THỦY NGÂN (chất bảo quản) có trong vaccine chính là nguyên nhân gây tăng nguy cơ tự kỷ.
oMột cuộc nghiên cứu về trẻ em học ở nhà, cho thấy trẻ chích vaccine giảm nguy cơ thủy đậu và ho, nhưng lại có nguy cơ cao bị dị ứng, và khuyết tật thần kinh (NDD) hơn.
-Chính cái nghiên cứu mà những "fact-check" dùng để dẫn chứng cho việc “vaccine không liên quan tự kỷ” cũng có ghi số liệu tỉ lệ trẻ tự kỷ là 44 ca/100.000 vào năm 1980, và trở thành 208 ca/100.000 vào năm 1994, tức là TĂNG GẤP 5 LẦN!!! Vậy mà các nhà nghiên cứu vẫn cứ nói láo là “không có liên hệ” (tương tự việc William Thompson sửa đổi số liệu)!
-Ngay một số tờ báo chính thống (pro-vax) cũng cho biết rằng khi kiện đòi bồi thường tổn thương do vaccine, các luật sư và gia đình nạn nhân cho biết rằng nên dùng chữ “TỔN THƯƠNG NÃO” thì sẽ dễ thắng kiện, còn nếu dùng chữ “TỰ KỶ” thì chắc chắn sẽ thua!!!
-Chuyện nhào nặn số liệu nghiên cứu của CDC cũng không phải chuyện quá lạ.
oVí dụ như vào tháng 11/2021, The BMJ cũng có 1 bài báo chỉ ra rằng Pfizer đã nhào nặn/ làm giả dữ liệu về hiệu quả vaccine covid trong thử nghiệm giai đoạn 3 (cuối năm 2020). (và FDA cũng thông đồng bao che cho Pfizer).
oMột nghiên cứu năm 2016 cũng chỉ ra rằng: đối với các nghiên cứu về mối liên hệ giữa thủy ngân và tự kỷ, thì hầu hết các nghiên cứu được tài trợ TIỀN bởi chính phủ hay các hãng dược thì cho ra kết quả TRÁI NGƯỢC với các nghiên cứu không được tài trợ!!! (tức là: “nén bạc đâm toạc tờ giấy”)
-Nghiên cứu cho thấy tỉ lệ trẻ tự kỷ TĂNG GẤP 5 LẦN vào năm 1994 so với 1980: https://pubmed.ncbi.nlm.nih.gov/11231748/ (lưu ý đọc con số, thay vì đọc nhận định bóp méo sự thật, vì con số không biết nói láo, còn con người thì biết)
1) Có (rất) nhiều nghiên cứu khoa học NGỤY TẠO hay nhào nặn số liệu cho các mục đích khác nhau (vì bị thao túng bởi ngành công nghiệp/ chính phủ Mỹ…). Do đó, không phải kết quả nghiên cứu nào cũng đúng, mà phải có sự PHÂN TÍCH, ĐỐI CHỨNG và CHỌN LỌC.
2) CDC Mỹ là 1 cơ quan không đáng tin cậy, vì rất nhiều chuyên gia CDC (và FDA) có lợi ích từ các hãng dược, và đã thực hiện việc nhào nặn/ che giấu số liệu.
3) Chínhchính phủ Mỹ cũng tham gia vào việc bưng bít thông tin.
4) Việc phơi bày mối liên hệ giữa vaccine và tự kỷ ra ngoài ánh sáng là cần thiết, bởi vì có như vậy người ta mới chịu nghiên cứu bỏ Nhôm và Thủy ngân ra khỏi thành phần của vaccine, để chế tạo ra những loại vaccine an toàn hơn!
------------------------------------------------
Ngày 26/12/2021:
LỢI ÍCH TIỀN BẠC DẪN DẮT CHÍNH TRỊ MỸ - DƯỢC LÀ NGÀNH CÔNG NGHIỆP CHI TIỀN CHO CHÍNH TRỊ (LOBBY) NHIỀU NHẤT NƯỚC MỸ, CHO CẢ QUỐC HỘI LẪN CHÍNH PHỦ
Bài này chỉ ra sự mâu thuẫn lợi ích, dẫn đến thao túng chính sách chính trị ở Mỹ, liên quan đến các tập đoàn dược khổng lồ (big pharma) và Covid-19. Các nội dung chính gồm:
1) DƯỢC là ngành công nghiệp chi nhiều tiền vận động hành lang (lobby) nhất nước Mỹ, với gần 5 tỉ USD trong 23 năm.
Trong đó, 2 hãng vaccine là Pfizer và Johnson & Johnson nằm trong số những công ty chi nhiều nhất!
2) Nhóm lợi ích trong quốc hội Mỹ - Ít nhất 75 đại biểu quốc hội Mỹ có cổ phần của các hãng sản xuất vaccine, thuốc và bộ xét nghiệm covid-19.
3) Nhóm lợi ích trong chính phủ Mỹ - Các chuyên gia của FDA, CDC (thuộc Chính phủ Mỹ) hưởng lương/ lợi nhuận… từ các đại công ty dược.
(Lưu ý: những con số trong bài là những con số CÓ BÁO CÁO, và chỉ là phần nổi của tảng băng)
4) Lợi nhuận khổng lồ của các hãng vaccine trong năm 2020-2021
1) DƯỢC là ngành công nghiệp CHI NHIỀU TIỀN vận động hành lang (lobby) nhất nước Mỹ, với gần 5 tỉ USD trong 23 năm.
Theo báo cáo thống kê của Investopedia (một trang web chuyên về tài chính có trụ sở ở New York), thì DƯỢC là ngành công nghiệp CHI NHIỀU TIỀN vận động hành lang (lobby) nhất nước Mỹ, với gần 5 tỉ USD trong 23 năm.
Theo báo cáo của OpenSecrets (một tổ chức phi lợi nhuận, chuyên theo dõi, nghiên cứu dòng tiền trong hệ thống chính trị Mỹ và ảnh hưởng của nó đối với bầu cử và chính sách công), riêng năm 2020, ngành Dược đã chi vận động hành lang (lobby) đến hơn 315 triệu USD!
Trong đó, 2 hãng vaccine là Pfizer và Johnson & Johnson chi lần lượt là 10,8 triệu và 7,9 triệu USD, nằm trong số những công ty chi nhiều nhất! (Moderna là 280.000 USD)
Khi diễn ra bầu cử Mỹ 2020, các tập đoàn dược đã tài trợ riêng cho tranh cử hơn 24 triệu USD. Trong số đó, có 72% cho đảng Dân chủ, hiện đang cầm quyền, và chỉ có 28% cho đảng Cộng hòa).
2)Nhóm lợi ích trong quốc hội Mỹ - Ít nhất 75 đại biểu quốc hội Mỹ có cổ phần của các hãng sản xuất vaccine, thuốc và bộ xét nghiệm covid-19
Ngày 13/12/2021, báo Business Insider công bố phân tích các bản kê tài chính liên bang, phát hiện ít nhất 75 đại biểu quốc hội Mỹ(cả thượng viện lẫn hạ viện) đã có mua bán cổ phần của các hãng sản xuất vaccine, thuốc và bộ xét nghiệm covid-19 vào năm 2020.
(Ghi chú: Đây CHỈ LÀ số đại biểu quốc hội có mua hoặc bán cổ phần của các hãng này trong năm 2020 được phát hiện. Nếu họ có cổ phần mà không mua bán trong năm này, thì chưa phát hiện ra. Và trừ một số trường hợp vợ/ chồng có mua bán được ghi nhận, thì nếu là anh em/ cha mẹ/ con cái… thì hoàn toàn không biết. Cho nên, con số này chỉ là phần nổi của tảng băng.)
-Ít nhất 13 nghị sĩ và 35 dân biểucó cổ phần của Johnson & Johnson.
-Ít nhất 11 nghị sĩ và 34 dân biểu có cổ phần của Pfizer. Hai dân biểu hoặc vợ/ chồng họ có cổ phần của Moderna.
-Ngoài vaccine, một số đại biểu đảng Dân chủ cũng đầu tư vào một số công ty sản xuất các thiết bị y tế liên quan như:
o3M: khẩu trang và thiết bị y tế…
oQuest Diagnostics,Abbott Laboratories: kit, dụng cụ xét nghiệm, thiết bị phòng thí nghiệm…
oRegeneron Pharmaceuticals: thuốc, liệu pháp kháng thể…
o…
Thói dối trá và đạo đức giả của các đại biểu quốc hội này được thể hiện khi có những đại biểu quốc hội (như Tom Malinowski, một dân biểu đảng Dân chủ bang New Jersey) nắm giữ cổ phần tại những công ty này, nhưng lại đứng ra lớn tiếng kêu gọi “không trục lợi trong dịch bệnh”!
Về việc dùng tiền ảnh hưởng bầu cử:
-Pfizer và một số cá nhân làm việc cho hãng này đã chi hơn 4 triệu USD cho các ứng cử viên và ủy ban bầu cử trong kỳ bầu cử 2020. Johnson & Johnson cũng chi hơn 2 triệu USD.
-Cả 2 công ty này đều chi cho đảng Dân chủ (hiện đang cầm quyền) nhiều hơn đảng Cộng hòa.
Một ví dụ về sự thao túng chính sách có thể thấy qua việc mua và phung phí test kit (bộ xét nghiệm) covid:
-Theo bài báo của The Atlantic (một tờ báo chính thống và ủng hộ vaccine), thì chính phủ Mỹ đã đặt mua hàng trăm triệu bộ xét nghiệm covid, nhưng chỉ có khoảng 10% kết quả được ghi nhận lại!!
-Đương nhiên việc xét nghiệm tràn lan có lợi cho các hãng bán test kit, chứ không mang lại hiệu quả chống dịch, vì Mỹ là một trong những nước có số ca dịch/ chết cao nhất thế giới. Và như người viết đã chỉ ra trong bài số 22. SỰ GIAN DỐI CỦA WHO, thì từ tháng 3/2020, chính phủ Phần Lan đã tuyên bố rằng họ sẽ chỉ xét nghiệm người bệnh có triệu chứng, chứ không xét nghiệm tràn lan như WHO khuyến khích, và sự khuyến khích đó thể hiện rằng WHO không hiểu gì về dịch tễ học!
Một ví dụ khác, chính là có những loại thuốc điều trị covid kém hiệu quả, rủi ro cao, nhưng lại được lăng xê rầm rộ, và được các chính phủ Mỹ, châu Âu… đặt mua với giá gấp hàng chục lần giá sản xuất. Xem chi tiết trong bài 27. CÁC THUỐC TRỊ COVID KÉM HIỆU QUẢ NHƯNG ĐƯỢC LĂNG XÊ RẦM RỘ: https://xoomato.com/bai27-thuoccovidkhonghieuqua
Business Insider dẫn lời của Joshua Silver: “Suốt 50 năm qua, chúng ta đã và đang chứng kiến sự suy đồi về đạo đức của chính phủ, trong tay của những nhóm lợi ích giàu có và những chính trị gia làm việc cho chúng.”
3) Nhóm lợi ích trong chính phủ Mỹ - Các chuyên gia của FDA, CDC (thuộc Chính phủ Mỹ) hưởng lương/ lợi nhuận… từ các đại công ty dược
Câu nói của Joshua Silver cho thấy việc vận động hành lang, hay nói cách khác là sự dùng tiền để lũng đoạn, thao túng chính sách đã xảy ra trong suốt 1 thời gian dài, chứ không phải mới đây.
Thực sự như vậy, trong 1 bản ghi chép một phiên làm việc của Hạ viện Mỹ, ngày 15/6/2000, đã ghi chép lại sự mâu thuẫn lợi ích không phải chỉ có ở các chính khách, mà còn ở NHỮNG CHUYÊN GIA CỦA FDA, CDC.
Văn bản này khá dài và nhiều thông tin, một số điểm nhấn từ văn bản trên của Quốc hội Mỹ được dịch ra như sau:
-Chúng tôi đã xem xét rất cẩn thận về sự mâu thuẫn lợi ích. Chúng tôi đã xem xét rất kỹ lưỡng về việc liệu ngành công nghiệp dược phẩm có phải đã có quá nhiều ảnh hưởng (thao túng) đối với những cơ quan này (FDA, CDC)hay không. Và từ những chứng cứ mà chúng tôi có được, chúng tôi tin rằng là CÓ.
-Chúng tôi đưa ra một ví dụ, về vaccine tiêu chảy (rotavirus). Nó được FDA phê duyệt sử dụng vào tháng 8/1998. CDC khuyến khích sử dụng nó rộng rãi vào tháng 3/1999. Các tai biến nghiêm trọng xảy ra ngay sau khi nó được đưa ra. (Do đó) Thứ vaccine này đã được rút khỏi thị trường Mỹ vào tháng 10/1999.
oCâu hỏi đặt ra là: liệu đã có những bằng chứng cho thấy vaccine không an toàn không, và nếu có, tại sao nó lại được phê duyệt?
oChúng tôi đã xem lại các cuộc họp (của FDA). Họ có thảo luận về những tai biến này. Họ biết nó có vấn đề tiềm tàng. Có những đứa trẻ bị tắc ruột, có đứa chậm phát triển, có đứa bị sốt cao dẫn đến tổn thương não. Vậy mà với tất cả những vấn đề này, ủy ban (FDA) vẫn NHẤT TRÍ phê duyệt nó.
-Các bác sĩ tin tưởng FDA, và cho rằng nếu FDA đã phê duyệt một thứ thuốc nào đó, thì nó an toàn. Liệu người ta có thể còn tin vào vaccine được nữa không, nếu biết rằng:
oMột: CÁC THÀNH VIÊN, KỂ CẢ CHỦ TỊCH ỦY BAN CỐ VẤN CỦA FDA, CDC, NHỮNG NGƯỜI RA QUYẾT ĐỊNH PHÊ DUYỆT (VACCINE), CÓ CỔ PHẦN TRONG CÁC CÔNG TY DƯỢC SẢN XUẤT VACCINE.
oHai: CÁC CÁ NHÂN THUỘC CẢ 2 ỦY BAN TRÊN SỞ HỮU BẰNG SÁNG CHẾ ĐỐI VỚI CÁC VACCINE CHỜ DUYỆT.
(ghi chú: hai điều trên có nghĩa là khi vaccine được duyệt, và bán ra thị trường, thì họ được hưởng lợi nhuận từ đó)
oBa: 3 trong 5 thành viên của ủy ban cố vấn FDA đã phê duyệt vaccine tiêu chảy (rotavirus) có mâu thuẫn về lợi ích. (ghi chú: điều này có nghĩa là chuyện như vậy có thể xảy ra với bất cứ loại vaccine nào)
oBốn: trong buổi họp biểu quyết đó, 7 trong 15 thành viên không có mặt. 2 người khác được không bỏ phiếu, và 5 người còn lại cùng với 5 người bổ khuyết tạm thời đều bỏ phiếu thuận (duyệt vaccine rotavirus đó).
(bên dưới có 1 đoạn liên quan: trong 10 người đó thì có ít nhất 6 người có liên hệ tài chính với các hãng dược sản xuất vaccine rotavirus)
oNăm: hàng năm CDC cho quyền khước từ mâu thuẫn lợi ích cho từng thành viên… Và như vậy, họ được tham gia thảo luận và tác động lên các thành viên khác, bất kể họ có mâu thuẫn lợi ích hay không. (ghi chú: điều này này có nghĩa là chuyện như vậy có thể xảy ra với bất cứ loại vaccine nào)
o…
oTrên đây chỉ mới là một vài trong số những vấn đề mà chúng tôi đã tìm ra.
-(tiếp theo, bản ghi chép liệt kê một số cá nhân cụ thể rơi vào các trường hợp đã nói ở trên, họ là những thành viên của FDA, CDC có cổ phần trong các hãng dược lớn và bằng sáng chế đối với các vaccine.)
-Vào năm 1999, tờ New England Journal of Medicine phát hiện rằng có 18 người viết các bài phê bình liệu trình thuốc lại có liên hệ tài chính với các hãng dược sản xuất loại thuốc mà họ viết tham luận!
-Năm 1998-1999, một thành viên NIH đã chọn đưa thuốc Rezulin vào trong thử nghiệm thuốc tiểu đường, trong khi người này lại là cố vấn cho hãng sản xuấtRezulin trong cùng khoảng thời gian đó!
-Rotashield (vaccine rotavirus đã đề cập ở trên) được tạo ra để chống lại rotavirus, với các triệu chứng như ói mửa, tiêu chảy, sốt nhẹ. Nhưng nó lại bị rút khỏi thị trường vì gây tai biến nghiêm trọng cho hơn 100 em bé. Vaccine Rotashield, có mục đích chữa những triệu chứng này, nhưng thay vào đó, lại gây ra 2 cái chết, 53 ca phẫu thuật và 47 ca chăm sóc y tế, tất cả nạn nhân đều là trẻ em.
(ghi chú: số lượng tai biến do vaccine covid ở Mỹ hiện đã đạt con số kỷ lục, cao hơn tất cả những vaccine trước đó CỘNG LẠI, nhưng đến giờ vẫn chưa bị rút lại)
-FDA và ban cố vấn khi phê duyệt vaccine rotavirus vào năm 1999, đã phớt lờ các thử nghiệm năm 1989 của một vaccine tương tự ở Trung Quốc, trong đó một số đứa bé đã gặp phải vấn đề ruột giống như vậy… Hơn nữa, ít nhất một trong những nhà nghiên cứu có mặt trong các thử nghiệm đó hiện đang làm việc tại CDC, và cũng có liên quan đến Rotashield. Vì vậy, dữ liệu thử nghiệm trước đó ở Trung Quốc đã có sẵn, nhưng BỊ PHỚT LỜ… và đã có những đứa trẻ chịu thương tổn, thậm chí là CHẾT.
(ghi chú: điều này hoàn toàn có thể đã xảy ra đối với vaccine covid-19)
4) Lợi nhuận khổng lồ của các hãng vaccine trong năm 2020-2021
Các hãng dược như Moderna, Pfizer là những công ty cổ phần, do đó số liệu tài chính đều được công khai do quy định. Vì vậy, việc tìm kiếm thông tin về doanh số (và lợi nhuận) của các hãng này là không khó.
Theo biểu đồ của Statista, doanh số của Moderna năm 2019 (trước khi bán vaccine covid) chỉ có 60 triệu USD, nhưng năm 2020 tăng vọt lên 803 triệu, tức là GẤP 13 LẦN!
-Chưa có thống kê quý 4, nhưng nếu tính quý 4 bằng trung bình của 3 quý kia, là 7,3 : 3 = 2,4 tỉ USD.
-Như vậy, lợi nhuận cả năm 2021 là khoảng 7,3 + 2,4 = 9,7 tỉ USD.
-Với doanh số khoảng 16,5 tỉ, mà lợi nhuận rơi vào khoảng 9,7 tỉ, thì lợi nhuận của Moderna chiếm tới 58%. Đây là tỉ số lợi nhuận khủng khiếp!
Người viết dùng 1 hãng vaccine (Moderna) để minh họa cho sự tăng vọt về doanh thu và lợi nhuận do việc bán vaccine covid. Người đọc có thể tìm thêm thông tin về các hãng khác nếu cần.
Kết luận:
-Với doanh thu và lợi nhuận khổng lồ, tăng vọt từ việc bán vaccine và các sản phẩm liên quan do dịch covid-19 mang lại, CÁC HÃNG DƯỢC HOÀN TOÀN CÓ THỂ CHI MẠNH TAY HƠN CẢ NHỮNG NĂM TRƯỚC, cả công khai lẫn không công khai, để thao túng chính sách của Mỹ.
-Và như vậy, số lượng đại biểu quốc hội cũng như nhân viên chính phủ Mỹ HƯỞNG LỢI TỪ LỢI NHUẬN TĂNG VỌT CỦA CÁC HÃNG DƯỢC KHỔNG LỒ, cũng như nhận tiền vận động hành lang (lobby) “khủng” có thể là lớn hơn rất nhiều những con số đã được biết đến.
Bài tham khảo liên quan:
Bài 20. NGHỊ SĨ BANG OREGON CÁO BUỘC FDA, CDC GIAN DỐI VÀ THAO TÚNG SỐ LIỆU COVID-19
No comments:
Post a Comment