Tác giả: Nhạn Nam Phi
Cùng với Việt nhân ca, Duy giáp
lệnh cũng là hiện tượng đặc biệt của văn hóa Trung Hoa, thu hút nhiều tâm lực
của giới nghiên cứu. Nhà đại nho thế kỷ XX Quách Mạt Nhược đã bàn về chuyện
này. Ở thời hiện đại, chuyên gia ngôn ngữ Trịnh Trương Thượng Phương thuộc Viện Nghiên
cứu Khoa học Xã hội Trung Quốc được coi là học giả hàng đầu. Tuy
nhiên, những diễn giảng của các vị này chưa thỏa mãn người đọc, vì thế câu
chuyện chưa kết thúc! Tôi cảm nhận rằng, khi nghiên cứu Duy giáp lệnh, các học
giả trên đã theo một phương pháp luận sai lầm. Dù biết rằng Duy giáp lệnh là
mệnh lệnh của Câu Tiễn, vị vua người Việt nhưng trong khi nghiên cứu, các vị
này không trở về ngôn ngữ gốc của Câu Tiễn là tiếng Việt, chữ Việt mà cứ giảng
giải biện luận bằng chữ Hán phát âm quan thoại. Làm như vậy có khác nào leo cây
tìm cá? Tôi vốn sống trong dân gian, học được ít nhiều chữ Hán nhưng thấm
đẫm ngôn ngữ, văn hóa Mân Việt, Bách Việt nên khi nhìn vào bản văn Việt nhân
ca, Việt tuyệt thư, Duy giáp lệnh… tôi dễ dàng nhận ra cái hồn cái vía Việt
trong những dòng chữ cổ. Không thể để chúng khô chồi héo rễ trong sách vở và bị
hiểu sai, bị xuyên tạc, tôi mạo muội thưa lại đôi điều.
1. Duy Giáp Lệnh theo sự hiểu hiện thời.
“Duy giáp lệnh” được
trích từ quyển thứ ba trong Việt tuyệt thư, Ngô nội truyện.
Việt tuyệt thư do một số người đã ghi chép lại chuyện xảy ra ở
Ngô và Việt thời Xuân Thu – Chiến Quốc, trong đó phần nhiều là do
Ngũ Tử Tư viết, khoảng năm 484 TCN, trước Sử ký
của Tư Mã Thiên nửa thiên niên kỷ. Đoạn văn như sau:
越絕書·吳内傳 維甲令
越王句踐反國六年,皆得士民之眾,而欲伐吳,於是乃使之維甲。維甲者,治甲系斷。修內矛,赤雞稽繇者也,越人謂入铩也。方舟航買儀塵者,越人往如江也。治須慮者,越人謂船為須慮。亟怒紛紛者,怒貌也,怒至。士击高文者,躍勇士也。習之于夷,夷、海也;宿之于萊,萊,野也;致之于單,單者堵也。。
Phiên âm: Việt
vương Câu Tiễn phản quốc lục niên, giai đắc sĩ dân chi chúng,
nhi dục phạt Ngô, vu thị nãi sử chi duy giáp. Duy
giáp giả, trị giáp hệ đoạn. Tu nội mao, xích kê kê
chựu giả dã, Việt nhân vị nhập sát dã. Phương châu hàng mãi nghi
trần giả, Việt nhân vãn như giang dã. Trị tu lự giả, Việt nhân vị
thuyền vi tu lự”. Cực nộ phân phân giả, nộ mạo dã, nộ chí. Sĩ
kích cao văn giả, diệu dũng sĩ dã. Tập chi vu di. Di, hải dã;
túc chi vu lai, lai, dã dã; chí chi ư đan, đan giả đồ dã.
Cho đến ngày nay, “Duy
giáp lệnh” được hiểu như sau:
維甲 修內矛
Duy giáp tu nội mao
方舟航 治須慮 phương châu hàng tu
lự
*亟怒紛紛者,
cực nộ phân phân giả *
*士击高文者 sĩ
kích cao văn giả **
習之于夷.
Tập chi vu di
宿之于萊.
Túc chi vu lai
致之于單.
Chí chi vu đan
*và **: lời của sử quan bị người sau đưa đưa lẫn vào Lệnh.
Ông Trịnh Trương Thượng
Phương giải nghĩa như sau:
维甲,修内矛(赤鸡稽繇)
= 连结好犀牛甲,快整修好枪矛刀剑!
Duy giáp, tu nội mao (xích kê
kê chịu) = Liên kết cho xong ngưu giáp, mau chuẩn bị đao kiếm giáo mác!
方舟航(买仪尘),治须虑 = 要想抬起头来航行,快整治战船
Phương châu hàng (mại
nghi trần), trị tu lự = Phải ngẩng đầu lên mà phóng thuyền,
chuẩn bị chiến thuyền.
亟怒纷纷,士击高文 = 激起冲天怒火,勇士们坚定地迈步向前!
Cực nộ phân phân, sĩ kích
cao văn = Kích khởi nộ hỏa xung thiên, các dũng sĩ
hãy kiên định cất bước thẳng tiến!
习之于夷 = 让勇士们在海上苦练,
Tập chi vu di = Hãy
để dũng sĩ khổ luyện trên biển
宿之于莱
= 让勇士们在野地宿营
Túc chi vu lai = Hãy
để dũng sĩ ngủ ở dã ngoại
致之于单 = 勇士们到前线致胜攻关!
Chí chi Vu Đan = Hãy
để các dũng sĩ đến tiền trận đến thắng công quan
Nhận xét:
Đoạn trên là văn kể chuyện,
tường thuật sự việc kèm theo trình bày nội dung Duy giáp lệnh. Trong văn bản,
tác giả không như chúng ta ngày nay dùng dấu ngoặc kép để phân biệt mệnh lệnh
của Việt vương với lời trần thuật của mình khiến cho người đọc dễ lầm. Khi
ông Trịnh Trương Thượng Phương đưa hai câu “Cực nộ phân
phân và Sĩ kích cao văn” vào Duy giáp lệnh, tôi
thấy là không thỏa đáng! Thực ra đây chỉ là lời ghi chú của sử
gia viết lại quang cảnh “bừng bừng khí thế” của quân lính tập trận khi
nghe lời nói của Việt vương Câu Tiễn mà tập trung lại thôi. Bởi
vì, trong một lệnh “tổng động viên” mà
có hai câu “ Tức giận bừng bừng, sĩ khí cao dâng” thì
có vẻ kỳ lạ? Vô lý! Thật ra lịch sử đã cho thấy là sau khi
có “Duy giáp lệnh” 10 năm nước Việt mới chinh phạt nước Ngô.
Trước khi phục quốc thành công thì nước Vu Việt đã bị nước Ngô xâm
chiếm. Dưới sự cai trị, giám sát của người Ngô thì làm sao
có một lệnh tổng động viên công khai kèm theo lời nói “tức
giận bừng bừng, sĩ khí cao dâng”?
– Lời giải
nghĩa của ông Trịnh Trương Thượng Phương hoàn toàn vô lý và
tối nghĩa ngay trong bản thân câu văn. Do biết được bối cảnh chuẩn bị
chiến tranh của “Duy giáp lệnh” ông suy diễn “giáp” là áo
giáp! Trong khi đó, tiếng Mân Việt của Câu Tiễn còn đọc
“giáp” là “cả”, “nội” là “lại” … Ông cũng quên rằng ngôn
ngữ thời Ngô Việt là đa âm và đa âmxưa vẫn tồn
tại đến ngày nay: trị tu lự gồm hai
từ: trị và tu + lự = trị tự là “trật tự”!
– Bài giảng nghĩa của ông Trịnh quá công phu
và quá dài với quá nhiều dẫn chứng bằng cổ
thư như “Quốc ngữ –
Việt ngữ hạ”, “Thuyết văn giải tự” của Hứa
Thận, “Sử ký” của Tư Mã Thiên, “Thủy kinh chú” và các từ
điển diễn giải “Quảng âm” , “Tập âm” v v… có dùng hay có giải thích
những chữ tương tự trong “Duy giáp lệnh” đồng thời so sánh
các từ đồng âm bên tiếng Thái và tiếng Choang… Do cách giải thích
hoàn toàn sai cho nên tôi không phiên dịch phần đó trong bài nầy. Nếu như
người nào muốn nghiên cứu toàn bài giải thích “Duy giáp lệnh” của
tác giả Trịnh Trương Thượng Phương thì có thể xem ở: http://www.eastling.org/paper/zhengzhang/zhengzhang_Weijialing.doc
– Cho dù bài
giải nghĩa “Duy giáp lệnh” nầy theo tôi và một số blogger Trung văn cho là
sai nhưng hiện tại nó đang được xem là “mẫu mực” , “chính thức” ,
“giá trị” , “tài liệu để giảng dạy trong trường Đại học”… Cho nên,
bất cứ ai có tinh thần yêu chuộng sự thật thì cũng nên góp phần thảo luận
để chỉ rõ ra cái sai và tìm ra cái đúng…
2. Phục nguyên Duy giáp lệnh
– Theo truyền
thống thì người ta dùng hai chữ đầu tiên của
mệnh lệnh để đặt tên cho lệnh vua, nên cái lệnh chúng ta bàn có
tên là “Duy giáp lệnh”! Nguyên văn “Duy giáp lệnh”
trong một đoạn ngắn được các sử quan nhiều đời sau cố tình giữ
nguyên cổ ngữ Việt để giữ đặc tính nguyên thủy và tính trung
thực của “lệnh”. Đó là một việc làm thật quý giá, nhưng
họ đã kèm theo những lời giải thích mà vô tình làm cho tối
nghĩa thêm! Khi thì thêm bằng chữ Nôm-Việt, khi thì thêm
bằng Hán ngữ, sử quan đã gây thêm ngộ nhận cho đời
sau. Có người vin vào đó mà nói rằng “Lệnh của vua Việt mà lại
dùng khi thì chữ “Hoa”, khi thì chữ “Việt”! Như vậy có
nghĩa là dân thì dùng tiếng Việt
còn vua và quý tộc thì đã bị “Hoa”
đồng hóa cho nên quen dùng tiếng Hoa và sợ rằng dân Việt
không hiểu nên kèm theo tiếng Việt! Lại có người nói rằng “Dân
Việt thời đó đã bị đồng hóa bởi tiếng Hoa, cho nên lệnh vua phải kèm
tiếng Hoa cho dân hiểu!” Cho tới bây giờ người ta vẫn căn
cứ theo những cái sai của tinh thần chủ quan, không thực
tế, không hiểu tiếng Việt mà lại đi giải nghĩa tiếng
Việt để rồi giải nghĩa “Duy giáp lệnh” hoàn toàn sai
bét! Trong khi, những cái đúng của sử quan ngày xưa thì không ai
hiểu, bị bỏ qua để hiểu theo nghĩa khác !
Chúng tôi ghi lại nguyên văn
Duy giáp lệnh như sau:
維甲 修內矛
Duy giáp tu nội mao
方舟航 治須慮 Phương châu
hàng trị tu lự
習之于夷. Tập chi
vu di
宿之于萊.
Túc chi vu lai
致之于單.
Chí chi vu đan
Như vậy, cái lệnh của vua Việt
Câu Tiễn thật ngắn gọn, vẻn vẹn có 23 chữ. Nhưng đó là sự thách đố suốt 25 thế
kỷ. Muốn giải nghĩa được, cần tìm nghĩa những từ sau:
– Chữ Tuyệt (絕), ngày nay chúng ta đọc là
Tuyệt絕 trong khi cổ xưa
lại đọc là Chép絕.
“Việt chép” (越絕) bây giờ trở thành
“Việt tuyệt thư” (越絕書).
– Chữ Đôi 堆 nghĩa là
đống (ví dụ đống đất), tiếng Mân Việt – Triều Châu lại đọc là “túi堆” và cũng có
nghĩa là “tất cả”. Nguyên một đoàn người thì có thể nói
là nguyên một “túi堆”-(“đống堆”) người. – Chữ Duy 維 ngày nay chúng
ta đọc là Duy維 nhưng trong “Duy
giáp lệnh” thì có thể ngày xưa đọc là “Tất” hoặc là
chữ “Túi堆” và “túi堆 cả甲” bị chép
nhầm là “Duy 維Giáp甲” như trường hợp
chữ chép絕 bây
giờ đọc là “Tuyệt絕”, quá khác nhau!
Suy ra: 1, Ngày xưa ghi là “堆甲-Túi
cả =Tất cả” ; 2, Ngày xưa dùng chữ“Duy維”
chính là đọc thành “Tất” , cho nên “duy giáp維甲”
cũng là “Tất cả維甲”.
Nếu quý vị nào quen
biết người Triều Châu biết đọc chữ “vuông” theo tiếng Triều châu thì sẽ
thấy là tiếng Mân Việt có khác:
– “giáp 甲”: đọc là “Cả” .
– Nội-內: đọc là “lại” .
– lai-萊: đọc là “lái”.
– Châu舟: đọc là “chuấn”
Chỉ có người nào vừa biết
tiếng Triều Châu và tiếng Việt Nam mới dễ thấy được sự tương đồng và
rõ nghĩa. Ví dụ “Nội-內”
có nơi đọc là “Lội” và Quảng Đông đọc là “nồi” hay “lồi” thì không xa âm
“Lại內” của Mân Việt-Triều Châu bao
nhiêu, và cũng từ đó sẽ dễ hiểu chữ “Tu修 lại 內mau矛”
tức là “Tụ lại mau” chứ không phải là “Sửa soạn – bên trong – giáo
mác” như chuyên gia ngôn ngữ bên Trung Quốc đã giải thích!
Xin giải thích từng chữ
của “Duy giáp lệnh” theo tiếng Việt và Mân-Việt (Triều Châu):
維:
Duy hiện giờ đọc là “Uy” ngày xưa có thể đọc là
“Tất”! 甲Giáp đọc là “Ca, Cà ,
Cả”. 修 Tu. 內 Nội đọc là “lai,
lài, lại”. 矛 Mao
đọc là “Mao”,“Mau”. 方 Phương. 舟 Châu đọc là
“Chuấn”. 航 Hàng. 治 Trị đọc là “Tia”. 須 Tu. 慮 Lự. 習 Tập. 之 Chi đọc là “Chua” phát
âm tương tự như “Cho”.于 Vu. 夷 Di. Chữ nầy là Di
của “Đông Di”, nhưng mà ghi chú của các sử quan ngày xưa ngay
trong “Duy giáp lệnh” đã giải thích “Di” nầy đọc là “Hổi 海”, Hải theo phát âm Triều
Châu bây giờ là “Hái海”, và người
Quảng Đông ngày nay vẫn đọc Hải海 là
“Hổi”. “夷Di” trong thời của
“Duy giáp lệnh” là “Hổi海”. 宿 Túc đọc là
“Sok”. 于 Vu. 萊 Lai đọc là
“láy”. 致Chí nầy là “chí致mạng命”
là “Chết”, trong “Việt tuyệt thư” khi dùng “chí至” nghĩa là “đến” thì viết
khác và viết là “Chí至”. 于 Vu. 單 Đan (hay đơn).
Ghi chú: theo tiếng Mân Việt-Triều Châu thì
những chữ sau đây sẽ là:
Duy維 trong
bài nầy phải là chữ “Đôi” đọc theo Mân Việt là “Túi”, là “tất” (tất
cả).
Phương方Chuấn舟ngày nay là chữ “Phuấn”
= Phóng.
Tu須Lự慮 là chữ đa
âm, ngày nay là chữ “tự”.
Vu于hổi夷 là chữ đa
âm, ngày nay là chữ “vổi” = giỏi .
Vu于lái萊 là chữ đa
âm, ngày nay là chữ “vái” = vẻ.
Vu于Đan單 là chữ đa
âm, ngày nay là chữ “van” = vang.
Sau khi đối chiếu Hán
Việt – Chữ Vuông/cổ văn – Việt/ Mân Việt/ Triều Châu-
tiếng Việt ngày nay, tôi xin trình bày phục nguyên “Duy giáp
lệnh” của Việt Vương Câu Tiễn như sau:
Duy giáp tu nội mao 維 甲
修 內 矛
Tất (Túi) cả tu lại mau à Tất cả tụ lại mau
Phương châu hàng trị tu
lự 方舟 航 治 須慮Phuấn
hàng trị tự à Phóng hàng trật tự
Tập chi vu di 習 之
于夷 Tập cho vu-hỏi à Tập
cho giỏi
Túc chi vu lai 宿 之
于萊 Sóc cho vu-láy à Sống
cho vẻ
Chí chi vu đan 致 之
于單 Chí cho vu-đan à Chết
cho vang
– Ngày xưa Việt Vương
Câu-Tiễn đã nói “Tất cả tụ lại mau …” Bây giờ nhờ vào tiếng Việt và
tiếng Triều Châu là tiếng Mân Việt (Tiếng Mân Việt ngày xưa khác
với bây giờ, giống tiếng Việt Nam hiện nay nhiều hơn, ngày nay dù
đã biến âm vì ảnh hưởng của Hoa ngữ-quan thoại nhiều nhưng không xa “nguồn
gốc” lắm), cho nên tôi đã phục nguyên được “Duy giáp lệnh” .
Đối chiếu với các lời ghi
chú – giải thích của các sử quan thời xưa ghi
trong “Duy giáp lệnh” thì càng thấy bản phục nguyên của tôi
là đúng. Dưới đây là lời giải thích của sử quan ngày xưa
đã ghi trong “Duy giáp lệnh” mà chưa có ai giải nghĩa
chính xác cũng bởi vì người ta không ngờ nhiều chữ chính là
chữ “Nôm” cổ đại của tiếng Việt:
– “赤雞稽繇”者也:
“Xích Côi kê chựu” giả dã=Người “Xét côi tề tựu” vậy.(Kê雞: chữ Nôm cổ đại đọc
là “Côi”). Câu chú thích nầy dùng “chữ Nôm cổ đại” chứng tỏ
được ý nghĩa “Tụ lại mau”. Người ra lệnh “Tụ lại mau” là người “Xét
coi tề tựu” .
– 越人謂 “入铩”也: Việt nhân vị “Nhập Sát”
dã = Người Việt gọi “Nhanh” vậy. Chữ Nôm cổ đại: Nhập sát入铩 nghĩa là
“nhát” hay “nhat” (cổ ngữ không có cố định các thanh
“sắc, huyền, hỏi, ngã, nặng”) âm “nhat” là nói
về chữ “nhanh入铩”
– “買儀塵”者:
“Mại Nghi Trần” giả= người “bày nghi trận”. Chữ Nôm cổ đại“Nghi
trần” hoàn toàn trùng âm với “Nghi trận”. Chữ Mại買 còn có âm đọc là
“Bồi買” bên tiếng Triều Châu. Tiếng
Triều châu “mại買 mải賣” đọc là “bồi
bôi” trong khi tiếng Việt Nam hiện giờ vẫn dùng “Buôn bán-買賣” cho Mại買 và Mãi賣 là mua vào và bán
ra. “Mại nghi Trần” là “bày nghi trận” trong “chữ Nôm cổ
đại”. Điều này càng thấy “Tụ lại mau, phóng hàng cho thẳng” đúng là
đang “bày nghi trận”.
– 越人往如江也:
Việt nhân vãng như giang dã. Câu chú thích nầy dùng từ Hán
Việt, ý nói người Việt đến tụ hợp rất đông, hàng hàng lớp lớp …(“vãng” là
“vãng lai” “vãng” là đến; “Như giang” là “như nước sông” ý
nói hàng hàng lớp lớp…)
– 越人謂船為 “須慮”: Việt nhân
vị thuyền vi “tu lự” – người Việt gọi thuyền là “tu-lự”. Sở dĩ
có câu nầy là vì vùng Giang Tô tiếng Việt (Ngô Việt) gọi thuyền
là “xuy須-lùy慮”
phát âm tương đương tiếng “xuyềnh” của QuảngĐông và chữ “Thuyền”
bên tiếng Việt ngày nay. Câu nầy chỉ là phần giải nghĩa thêm
chữ “Thuyền” của một sử quan nào đó.
Nó làm rõ nghiã là “phóng hàng trật tự…” chứ không thể nào
“phóng châu mà “trị” thuyền, sửa thuyền!
– 亟怒紛紛者怒貌也怒至:
Cực nộ phân phân giả nộ mạo dã nộ chí – Câu chú thích bằng Hán
Việt nói về những người lính đang tập hợp phóng hàng là “Cực nộ bừng
bừng”… rõ ràng có dùng chữ “giả者”
là “người”vậy nó không thể nằm trong bản mệnh lệnh!
– “士击高文”者躍勇士也: “Sĩ kích cao
văn” giả diệu dũng sĩ dã – Câu chú thích bằng tiếng
Hán Việt nói về “sĩ khí dâng cao” của những người đã “phóng
hàng trật tự”, cũng có chữ “giả者”
là “người” nên không thể nằm trong mệnh lệnh!
– “夷”、 “海”也:
“Di” , “Hỏi” (Hải) dã – chú thích nầy lại nói rõ “Di” nầy là
“hải海” là “hỏi” bên Hán
Việt nhã ngữ. Chú thích nầy quá lạ. Không ngờ thời xưa
“Di” lại đọc là “Hỏi”. Nhờ vậy mà biết được “vu-hỏi” là “vỏi” tức
là “giỏi” của ngày nay!
– “單”者堵也:
“Đan” giả đồ dã – chú thích nầy khó hiểu nhất ! “Đan單” giả là “Đồ單” dã! “Đồ” là đồ
sát, là giết chết… Có lẽ sử quan ngày xưa hiểu được ý câu “Sống
cho vẻ, chết cho vang” nên giải thích “đan” là “bị giết chết khi
đánh giặc là vẻ vang”. Ngày nay người Trung Hoa không hiểu
nên diễn giải là “tấn công thành lũy, công quang, đến khi chiến thắng !
3. Kết luận:
Phục nguyên “Duy giáp
lệnh” không khó nếu như nắm vững qui luật đa âm thời cổ và đơn âm
thời nay, cùng với các phương ngữ Việt. Nhưng trình bày cho
rõ lại là chuyện không dễ! Việt nhân ca với
Duy giáp lệnh là hai văn bản xa xưa cho thấy rằng
khoảng 2500 năm đến 3000 năm về trước, người Việt đã
có chữ “Nôm” rồi! Điều nầy phù hợp với “suy luận theo lý lẽ” của tôi
là chữ “Nôm” có trước và chữ “Hán-Việt” hay chữ “Hoa” là
có sau! Bởi vì, chữ “Hoa” hay “Hán-Việt” toàn là đơn âm! Chẳng
lẽ người xưa phải “chờ” đến khi ngôn ngữ biến thành đơn âm hết
rồi mới có chuyện sáng chế ra chữ viết? Theo suy luận của tôi thì người
xưa không chờ mà đã sáng chế ra chữ viết ngay khi còn
dùng tiếng nói đa âm. Đó là chữ “Nôm”! Chắc chắn là
không phải chỉ có riêng một người sáng tạo ra ngôn ngữ, vì
không ai đủ sức và sống lâu ngàn năm để làm được như
vậy! Chính bá tánh toàn dân đã sáng chế ra chữ viết “Nôm”.
Bởi vậy nên chữ Nôm không có tính thống nhất. Sau nầy các văn
bản của triều đình được gọi là “nhã ngữ” đã thay thế dần rồi làm thất
truyền đi “chữ Nôm”. Do vậy sau nầy người ta mới không hiểu và giải
nghĩa sai “Việt nhân ca” và “Duy giáp lệnh”! Có nhiều vết
tích để lại là chữ “Nôm” có trước. Hy vọng thế kỷ 21
sẽ chứng minh được điều nầy./.
Thanh Đỗ/Nhạn Nam Phi
No comments:
Post a Comment