LỜI NÓI ĐẦU:
Ban đầu bài này là một phần của bài ‘Thử
giải nghĩa ‘con Rồng cháu Tiên’’. Tuy nhiên, khi các ý tưởng được phát triển,
các ý này vượt phạm vi bài viết trên quá nhiều, nên đã được tách thành một bài
riêng.
Trong bài này, có các nội dung chính sau:
-
Chứng minh nguồn gốc tiếng
Nôm của 2 chữ Âm陰
Dương陽. Từ
đó phục nguyên cổ âm của chữ Dương陽.
-
Bổ sung luận cứ bằng
Giáp cốt văn và Kim văn, chứng minh rằng Việt nghĩa là Dương陽,
là Sáng, là Mặt trời, là Lửa, Sức Nóng… và xâu chuỗi toàn bộ ý nghĩa của ‘Việt’.
-
Chứng minh rằng
nhà Thương là Việt, Khổng Tử là
con cháu nhà Thương nên cũng là người Việt, tên nước Lỗ cũng là Lạc (Việt).
-
Và một số ý khác
về trống đồng, Hỏa giáo…
Nội dung bài viết gồm các phần:
PHẦN 1
a) Giải nghĩa tiếng Nôm của
Âm陰 Dương陽
Vì
ủng hộ giả thuyết (đối với người viết thì đó là sự thật, nhưng vì chưa được
công nhận rộng rãi, nên vẫn gọi đó là giả thuyết) rằng người Việt là chủ nhân
đích thực của nền văn minh Trung Nguyên cổ đại, và là tác giả của Hà Đồ, Lạc
Thư, Bát Quái, nên trong phần này người viết sẽ trình bày cái gốc Nôm của 2 chữ Âm陰 Dương陽, nhằm
góp thêm bằng chứng cho vấn đề này.
Về
mặt triết học, ‘Âm Dương’ (Yin and Yang) ngày nay có rất nhiều
nghĩa. Thí dụ như người ta nói Dương là mặt trời, cứng, mạnh, nam, hướng lên
trên… Âm là mặt trăng, mềm, yếu, nữ, hướng xuống dưới…[1] Trong phần này sẽ lý giải cái gốc của 2 chữ này, để thấy rõ 2 chữ này
là từ tiếng Nôm mà ra.
Tự
điển Thiều Chửu giải nghĩa 2 chữ này như sau:
-
Dương陽:
o
Phần dương, khí dương. Trái lại
với chữ âm 陰.
o
Mặt trời.
o
Chiều nước về phía bắc cũng gọi
là dương. Như Hán dương 漢陽
phía bắc sông Hán.
-
Âm陰:
o
Số âm, phần âm, trái lại với
chữ dương 陽.
o
Chỗ rợp, chỗ nào không có
bóng mặt trời soi tới gọi là âm.
o
Chiều sông phía nam gọi là
âm. Như giang âm 江陰 chiều sông phía nam, Hoài âm 淮陰 phía nam sông Hoài, v.v.
Các
ý nghĩa ‘phần dương’, ‘phần âm’, ‘khí dương’, ‘khí âm’ là những nghĩa trừu tượng,
có sau. Còn các nghĩa ‘mặt trời’, ‘chỗ rợp’, ‘phía Nam/ Bắc sông/ núi’ là những
nghĩa rất cụ thể, chắc chắn là có trước nghĩa trừu tượng. Đây là manh mối để giải nghĩa 2 chữ Âm陰
Dương陽 này.
Tại sao Dương陽 là phía Bắc của sông, nhưng lại
là phía Nam của núi? Còn Âm陰 thì ngược lại, là phía Nam của sông, và phía Bắc của núi? Ý nghĩa Dương陽 – mặt trời và Âm陰 – chỗ rợp giúp lý giải vấn đề này.
-
Lý
do của điều này liên quan đến cả kiến thức
địa lý lẫn kiến thức thiên văn: vùng đất Trung Nguyên ngày xưa nằm ở Bắc
bán cầu. Do đó phía Nam thường có nhiều ánh sáng hơn phía Bắc!
-
Điều
này đặc biệt đúng nếu xem vùng Hà Nam là nơi phát tích nền văn minh Trung
Nguyên. Hà Nam có vĩ độ vào khoảng 31o-36o vĩ Bắc. Vì ở vị
trí cao hơn vĩ độ 23,5o Bắc, nên khu vực này quanh năm (kể cả mùa hè) mặt trời luôn chếch về hướng Nam, bất kể
mùa nào.
-
Như
vậy, khi nhìn một quả núi, thì mặt phía Nam có nhiều ánh sáng hơn, cây cỏ sẽ phát triển tốt hơn, mặt phía Bắc ít
ánh sáng, thì sẽ âm u hơn, và cây cỏ
không phát triển bằng.
-
Ngược
lại, đối với dòng sông, thì phía Bắc sông thì luôn có nhiều ánh sáng, vì chắc chắn là không bị núi che chắn. Còn ở
phía Nam con sông thì có khả năng bị núi ở phía Nam bờ sông (nếu có) che bớt
ánh sáng.. Xem hình minh họa bên dưới sẽ dễ hiểu vấn đề này.
Hình
minh họa, phía Bắc sông là đất Dương, phía Nam sông là đất Âm.
Đến đây, người viết tin rằng sau khi giải nghĩa
được lý do tên gọi ‘Âm’ ‘Dương’, ta có thể khẳng định được nguồn gốc tiếng Nôm
của ‘Âm’ và ‘Dương’:
-
Dương陽 (hay Dương昜) chính là
‘SÁNG’, cả âm lẫn nghĩa.
o
Mối
liên hệ ‘ươ’ ~ ‘a’ là dễ thấy, tương tự như ‘nước’ và ‘nác’. Ngày nay giọng Bắc
Kinh vẫn đọc Dương là ‘Dang’, Latin hóa là ‘Yang’.
o
Còn
‘D’ và ‘S’ thì tương tự trường hợp ‘sông’ và ‘giang’.
o
Chữ ‘Sáng’ cũng còn có
một âm Nôm nữa, đó là ‘Rạng’ (‘rạng rỡ’ = ‘sáng rỡ’). Âm ‘Rạng’ này
rất gần với Dang/Dương (đọc theo giọng Bắc),
và chính là cổ âm của cả Sáng lẫn Dang/ Dương. Wiktionary chữ Dương昜 cho biết rằng cổ âm của Dương昜 là *lang (dựa
trên nguồn của Baxter-Sagart và Trịnh Trương Thượng Phương) [3]. Thực ra chính
là Rang/Rạng,
mà vì âm r khó đọc biến thành l, trường hợp này rất thường gặp (ví dụ như rồng
~ long, rừng ~ lâm/lin…).
o
(Ở
phần tiếp theo bên dưới, người viết sẽ tiến hành phục nguyên cổ âm của chữ
Dương昜 và chứng minh thêm mối liên
hệ giữa các âm này.)
o
Mối
liên hệ giữa các âm Sáng ~ Rạng ~ Dương
(Dang) này đặc biệt giống với mối liên hệ của các âm Sông ~ Rồng ~ Dòng (Sông) (mà người viết đã trình bày ở bài viết ‘Thử
giải nghĩa ‘con Rồng cháu Tiên’ [4]).
o
Chữ
Dương昜 cũng có 1 nghĩa, Thuyết văn
ghi là Khai開, tức là “mở ra”. Tiếng Nôm
chắc chắn là ‘dang’ (ra) hay ‘dạng’ (ra). Chỉ có tiếng Việt mới hiểu được như vậy,
chứ người Hồ làm sau hiểu được Yang昜 là Kai開?
o
Và
tại sao Dương昜 cũng có nghĩa là trời? Trong
tiếng Tây Nguyên ngày nay còn âm Giàng, nghĩa là Trời.
o
Như
vậy, chữ Dương昜 có nguồn gốc
tiếng Nôm từ các âm Sáng/Rạng/Dạng/Dang/Giàng (theo nguyên tắc, cổ âm vần ‘iang’
sẽ thành ra 2 vần tương đương là ‘ang’ và ‘ương’). Người Việt phân biệt được
các âm này, nhưng người Hồ (khi bắt đầu xâm nhập Trung Nguyên vào thời Chu)
không phân biệt được các âm này, cho nên chỉ viết 1 chữ 昜 và gán cho tất cả nghĩa đó.
-
Âm 陰 (hay Âm侌) là ‘Âm U’, là
‘U Ám’, nghĩa là TỐI.
o
Lưu
ý là chữ Âm không có nghĩa ‘đóng lại’ ngược với ‘dang ra’ (khai開) của chữ Dương. Đó là vì trong tiếng Nôm thì
tiếng ‘Âm’ không có gần với âm nào nghĩa là ‘đóng’ cả. Điều này cho thấy Âm/
Dương có nguồn gốc tiếng Nôm.
Như vậy, cặp
đối lập ‘SÁNG’ và ‘TỐI’ trong tiếng Nôm đã trở thành ‘Dương’ và ‘Âm’, và trở
thành một cặp phạm trù triết học thu hút hàng ngàn người qua hàng ngàn năm.
Để
củng cố thêm chứng cứ cho lý giải này, ta có thể sử dụng tự điển. Thuyết văn giải
tự ghi 2 chữ này như sau:
-
Âm陰:
Ám闇 dã也。thủy水
chi之 nam南、sơn山
chi之 bắc北
dã也
(tạm dịch: Âm là ‘tối’, phía nam của nước, phía bắc của) [6]
Ngay
cả tượng hình của 2 chữ cũng cho thấy điều này.
-
Chữ
Dương昜 gồm có mặt trời ở trên cao, và phía dưới
có các tia, để biểu ý là SÁNG.
o
Thái
Dương nghĩa đen là Sáng Nhất, sáng nhất thì không gì bằng Mặt Trời. Vì vậy Thái
Dương nghĩa là Mặt Trời.
-
Chữ
Âm侌 thì nhìn giống như một ngọn
núi phủ bóng
xuống nền đất. (‘Âm’ còn có nghĩa là ‘bóng rợp’.)
o
Thái
Âm lại có nghĩa là mặt trăng. Có khả năng Thánh nhân xưa đã biết ánh trăng chính
là ánh sáng phản chiếu của Mặt trời vậy!
Từ
ý nghĩa cổ xưa đơn giản như vậy, Sáng và Tối đã trở thành Dương và Âm, rồi dần
mở rộng thành những ý tưởng triết học. Ví dụ (xin lưu ý rằng chỉ là ví dụ) như:
-
Dương
thì thành ‘dâng’, dâng lên là dương, hạ xuống là âm.
-
Mặt
trời ‘dâng’ lên ở hướng ‘đông’ (có khả năng chữ Đông東 chính là từ ý này; mặt trời dâng lên trên ngọn
cây), nên hướng Đông là dương, hướng Tây là âm.
-
Hướng
Nam thì sáng, nên là dương, hướng Bắc ngược lại thì là âm.
-
Dương,
dâng lên thì cao, cao là dương (sáng), thấp là âm (tối).
-
Dương
lên gần mặt trời thì nóng, thấp xuống thì lạnh, nên dương nóng mà âm lạnh.
-
Dương
thì thành ‘vươn’, vươn ra là dương, vậy thì thu lại là âm.
-
…
Nguồn gốc tiếng Nôm của 2 chữ Âm Dương tái khẳng
định rằng nền văn minh Trung Nguyên cổ đại là thuộc về Bách Việt.
Trong
các phần sau sẽ tiếp tục chứng minh Dương = Rạng/ Sáng/ Mặt trời/ Lửa chính là ý nghĩa của từ ‘Việt’.
b) Phục nguyên cổ âm của chữ
Dương陽
Trong
các phần sau người viết sẽ trình bày chữ Giáp cốt văn và Kim văn thời cổ để chứng
minh tên của nhà
Thương商 thời cổ
thể hiện ý nghĩa là ‘Sáng’. Ở đây sẽ sử dụng tên của vua Thang湯 sáng lập nhà Thương商 để phục
nguyên cổ âm của chữ Dương昜.
-
Wiktionary chữ Dương昜 cho biết rằng cổ âm của Dương昜 là *lang (dựa trên nguồn của Baxter-Sagart và
Trịnh Trương Thượng Phương). [3]
o
Cách
phục nguyên âm của chữ Dương昜 là *lang của 2 tác giả trên tương đối
hợp lý. Tuy nhiên, chính xác thì đó phải là âm *rang, bởi vì từ Rang
mới biến ra Dang
trong tiếng Hoa và và âm r khó đọc bị biến thành l (rất thường gặp, ví dụ rồng
~ long, rừng ~ lâm/lin…), nên mới thành *lang.
o
Và
âm *rang
này rõ ràng chính là âm Rạng/Sáng của tiếng Nôm.
o
Nhưng
muốn chính xác hơn nữa thì phải là *riang, vì âm ‘iang’ mới biến thành ‘ang’ và
‘ương’ (cho nên mới có Thang ~ Thương, Dang ~ Dương, Lạng ~ Lượng, Tràng ~ Trường…).
o
Còn
có 1 chữ Dương nữa với bộ Hỏa火, viết là Dương煬 hay Dương烊 (đây là
loại chữ hình thanh, nên viết bằng chữ Dương nào cũng như nhau), tự điển ngày
nay giải nghĩa là ‘nấu chảy’. Tuy nhiên, Thuyết văn giải nghĩa chữ này là
Chá炙Táo燥, có nghĩa là ‘nướng khô’ (đúng văn phạm tiếng
Việt). Như vậy, chữ Dương煬 này rõ ràng chính là chữ Nôm
cổ ‘rán’,
tức là ‘nướng’, mà người Hoa đã quên mất cái nghĩa Nôm cổ của nó, nhưng người
Việt (đặc biệt là ở miền Bắc) vẫn còn dùng đến giờ..
-
Như vậy, chỉ cần
dùng kết quả của Baxter-Sagart và Trịnh Trương Thượng Phương, là đủ để phục
nguyên cổ âm của chữ Dương昜 là *riang (hay *rang), đủ để có thể chứng minh nguồn gốc của chữ Dương昜 là Rạng/Sáng
trong tiếng Nôm.
Tuy
nhiên, người viết xin mở rộng thêm với chữ
Thang湯, là tên
vua Thành Thang sáng lập nhà Thương, bởi vì nhà Thương là triều đại của người
Việt như sẽ chứng minh ở các phần tiếp theo (bằng Giáp cốt văn).
-
Wiktionary chữ Thang湯 cho biết âm của Thang湯 là *lang hay *rang. [7] Âm Thang湯
lại khác quá xa âm Lang/Rang, thì làm sao có cổ âm là *lang hay *rang được?
o
Theo
Thuyết văn, chữ Thang湯
viết theo bộ Thủy氵, đọc theo âm của chữ Dương/Dang 昜 (从水 昜聲).
[8] (như vậy là loại chữ hình thanh)
o
Âm
đọc theo chữ Dương/Dang昜 ghi trong Thuyết văn là âm
thời Hán. Sau này Thuyết văn được phục nguyên, có bổ sung âm Th-lang (Thổ土 + Lang郎 = Th-lang). [8]
o
Th-lang
thì tất nhiên là tương đương Th-rang.
-
Như
vậy, với những yếu tố trên, và với cái gốc Nôm của chữ Dương昜 là ‘Sáng’, người viết đã có thể phục nguyên được
âm gốc của chữ Dương/Dang昜 và Thang湯 là Thriang.
o
Âm
này đầy đủ và chính xác hơn (có lẽ là cổ hơn) âm *rang. (Ngay tiếng Hoa ngày nay
đọc chữ 湯 là Tang, thì cổ âm phục
nguyên ít ra cũng phải là T-rang)
o
Khi
đọc Thrang mà bỏ t/th còn ‘Rạng’ sẽ biến âm ra ‘Sáng’, và khi đọc bỏ r/l thì sẽ
còn ‘Thang’ hay ‘Tang’. Còn âm cổ ‘i-ang’ thì thường biến thành ‘ang’ và
‘ương’.
o
Như
vậy, ta có mối liên hệ giữa các âm: Thang ~ Rạng ~ Dang ~ Sáng và
Thương ~ Dương, từ cổ âm Thriang mà
ra.
o
Âm
Thriang
này có lẽ quá cổ, các chữ hiện nay hoặc chỉ theo nhóm phụ âm Th/T hoặc nhóm phụ
âm r/d/s.
-
Điều
này tương tự âm cổ của Trăng/Tháng là Tlăng/ Blăng, hay trong một bài viết trước,
người viết cũng đã trình bày cổ âm của Chàng và Lang là Chlang/Tlang. ‘Thằn lằn’,
‘thuồng luồng’ và trăn, rắn, rồng cũng có thể chính là trường hợp này.
o
Krong
đọc lướt ‘r’ thì thành Kong (như trong tên của sông Me-Kong), hay Công工, là cổ âm của chữ Giang江 (nghĩa là sông).
o
Krong
đọc bỏ ‘k’ thì còn rông, biến thành rồng, giòng, dòng và sông.
(Ai
có nghiên cứu về cổ âm tiếng Việt thời Việt-Bồ-La trở về trước sẽ dễ hiểu vấn đề
này.)
(Bàn thêm:
-
Ngôn ngữ phát triển từ đơn giản
đến phức tạp, từ ít biến ra nhiều, từ một âm biến ra nhiều âm, nhiều nghĩa. Rất
có khả năng ngày xưa chỉ dùng 1 cổ âm THRIANG (nghĩa
là SÁNG) để
gọi chung cho cả mặt trời lẫn mặt trăng, rồi sau thì ngôn ngữ phát triển mới biến
ra âm Rạng/ Dang/Yang (tiếng Latin là Sol,
tiếng Anh là Sun ~ Sáng) để chỉ mặt trời, và âm Trăng/Tháng
để chỉ mặt trăng. (Nếu
điều này đúng, thì ta thấy rằng chữ Minh明 nghĩa là
Sáng, viết bằng 2 chữ Sáng日 (Sun) và Sáng月 (Tháng))
o
Chữ日 (Rướ), là sáng Rực/Rỡ tiếng Nôm, ngày
nay âm Hán Việt đọc là Nhật, chỉ mặt trời. Có khả năng âm này liên quan đến ‘Ra’ – thần Mặt trời ở Ai Cập cổ.
o
Có
khả năng âm ‘Thriang’ khi đọc bỏ r là Thi-ang, biến thành Thi-êng rồi rút ngắn
thành Thiên天 (cũng có nghĩa là Trời).
o
Âm
Dương/Dang/Rạng thì biến thành âm Giàng
(cũng là Trời) ngày nay còn thấy trong ngôn ngữ của một số dân tộc ở Tây
Nguyên.)
(Ghi
chú:
-
Cũng
có một khả năng khác (khó xảy ra hơn), đó là chữ Thang湯 là
cách viết âm kép Thủy氵 + Dang昜 = Thang (cũng như Thủy氵 + Lang = Thlang, vì Dương = Dang/ Rang/ Lang).
-
Trong
trường hợp này thì chỉ có chữ Thang湯 là âm Thriang vì ghép thêm bộ Thủy,
còn chữ Dương昜
là âm riang.
-
Trong
kinh nghiệm của người viết thì thông thường chữ trong Thuyết văn chỉ đọc theo
âm của chữ sau, và bộ đầu chỉ nghĩa chứ không chỉ âm. Bên cạnh đó, từ 1 cổ âm
Thriang chung biến ra các âm mang nghĩa mặt trời và mặt trăng là phù hợp, cho
nên cách phục nguyên ở trên là hợp lý hơn.
-
Nhìn
chung, dù chữ Dương昜
có cổ âm là Thriang hay chỉ là riang, thì cũng vẫn liên quan đến âm Rạng/Sáng
của tiếng Nôm, cho nên không ảnh hưởng đến luận điểm chính của bài viết này.)
Trong
bài viết ‘Chữ Nôm
cổ xưa và ý nghĩa của Việt’, tác giả Nhạn Nam Phi đã đưa ra rất nhiều luận
cứ chứng minh rằng ý nghĩa chính của từ ‘Việt’ là ‘ánh sáng quang minh của Mặt
trời và Mặt trăng’, có thể tạm chia làm 2 loại: [10]
-
Vật
chứng về mặt ngôn ngữ chính là sự xuất hiện thường xuyên của các chữ Mặt trời 日, Mặt trăng 月, dương 昜 (sáng), chiếu… trong tên gọi của các nước thời
Xuân thu – Chiến quốc. Các tên gọi này thể hiện ý ‘Sáng’.
-
Vật
chứng vật chất cụ thể chính là các Trống Đồng được tìm thấy có hình mặt trời
ở vị trí trung tâm với các tia sáng rực rỡ.
Trống
đồng với biểu tượng mặt trời ở giữa. Nguồn: https://vi.wikipedia.org/wiki/Trống_đồng_Đông_Sơn.
Trong
bài ‘Chữ Nôm
cổ xưa và ý nghĩa của Việt’, tác giả Nhạn Nam Phi đã làm rõ được Việt là Mặt trời (cũng
là Dương昜 trong
Âm Dương): [10]
-
…Người
Triều Châu đọc Nhật日 là “Diệt/ diềt”
và người Quảng Đông đọc Nguyệt月 là “Duyệt”, tiếng Việt ngày nay thì là “Nhật-Nguyệt”.
Điều này cho thấy thời “tiếng Việt nguyên Thủy” thì dù là mặt trời hay là mặt trăng,
miễn là “ngôi sao – chiếu sáng” đều có chung ý nghĩa là soi sáng, là “Diệt/Việt”, là “Viêm-nhiệt”, là sức
nóng và tỏa sáng, là ánh sáng quang
minh… Và ngay cả ánh sáng của quang minh được soi chiếu bởi một âm là mặt
trăng và một dương là mặt trời đều có tên chung cùng phát âm giống nhau là “Việt/Diềt”.
-
Việt =
Việt. Việt viết bằng chữ “Dương楊”, cũng là chữ Dịch易 Việt, chỉ
thêm vào bên trái bộ Mộc. Nước “Dương楊 –Việt越” là nước “Việt楊”, thêm vào thành ra là “Dương楊” “Việt越” để
phân biệt với những nước Việt khác mà thôi. “Dương楊 Việt”
vùng nầy phát âm như “yuôn”, “duyồn” gần với âm của tiếng Khmer. Sau này còn gọi
là “Yuồn” Việt. Vì chữ Hán Việt đã quên chữ “Việt” này mà đọc là “Dương楊” vì bắt
chước âm “yuôn” nên phải thêm vào “Việt” thành ra “Yuôn Việt tức là Dương Việt”.
Âm “Yuôn楊” Việt này là Nôm có trước, lâu quá đến đỗi người
ta đã quên và chỉ nhớ là “Dương楊”.
-
Việt = Việt陽, thể hiện bằng chữ “Dương陽”, chữ này
ngày nay vẫn dùng để chỉ mặt trời như chữ “Nhật日”. Có vua tên là “An Dương陽 Vương” không?
Vô lý! Thật ra là “An Việt陽 Vương”, chỉ
là do người đời sau bị ngộ nhận do quên mà đọc sai theo âm mới là “Dương陽”, âm cũ
là “Việt陽”. Chữ Nôm có trước quá lâu và người ta đã quên.
Và
chữ Dịch易 cũng
là Diệt/ Việt: [10]
o
Việt易:
chữ Nôm đọc là “Diệt/ diềt易” ở
Quảng Đông. Hán Việt và Việt đọc là “Dịch易”,
Bắc Kinh phát âm là “Yi易”, Triều Châu phát âm là “éck易”.
Quảng Đông phát âm là “diềt” tương đương với “Diệt易”
là “Việt易”. Chỉ có âm Quảng Đông là
còn đọc chữ nầy gần với âm “Việt易” nhất (tiếng Quảng Đông đọc
chữ “Việt易” này là: “Diềt易
diệk” hoàn toàn như người Triều Châu đọc chữ “Việt日”
(nhật日) này là; Diềt日
Diệk). “Việt易” đây là chữ dịch chính là chữ
tượng hình vẽ mặt trời hình tròn >O< với các tia sáng chung quanh được mỹ
thuật hóa và vuông hóa thành chữ “nhật日”
được đặt ở phía trên, và các tia sáng chung quanh được gôm lại biến thành chữ
“Vật勿” để ở phía dưới thành ra “Việt易”.
Chữ Việt này với chữ Việt cổ xưa nhất là vẽ hình mặt trời >O< có tia sáng
phát ra tứ phía là chung một chữ mà thôi. Thật
ra Kinh Dịch là đọc trại âm từ chữ Kinh Việt: Kinh của người Việt thì mới gọi là Kinh
Việt (日/ Mặt trời + 勿/tia sáng) = “Việt/易”.
(2 chữ Dịch易 và Dương昜 giống nhau đến 90% (chỉ khác 1 nét ngang), và
đều thể hiện ý ‘Sáng’ của mặt trời, thì cùng/ gần âm và cùng/ gần ý nghĩa là hợp
lý.)
Và đây có lẽ là đoạn quan trọng
nhất, thể hiện ý nghĩa của Việt là Mặt trời, là Sáng, và sức nóng: [10]
-
…chữ Nhật日 ngày
nay. Phát âm Hán Việt đọc là “Nhật日”. Phát âm Bắc kinh-Hoa ngữ đọc như là “Rướ日”.
o
Thật ra là được biến âm từ chữ
Nôm “Rực / rỡ日-hay
(Diệt)”
và thường dùng Anh văn/ English để phiên âm là “ri 日”.
Phát âm Mân Việt-Triều Châu thì đọc là “Diềt日”.
-
“Diềt日” hay là “Rực日” là Nôm ngày xưa của Bách Việt, và chỉ có người
Việt có phát âm “Diềt日” nầy.
-
Tôi xin
trình bày rõ ở đây và xin phục nguyên âm đọc cổ xưa và có thể gọi là Nôm hoặc
là Nôm cổ đại, đọc là Diềt/(Việt)日. (Việt)/Diềt日 là mặt trời, và cũng là “Việt” mà có nhiều
cách viết khác là “Việt粵”
và “Việt越” v... v…
-
(Điều
này giải thích vì sao có quá nhiều trống đồng có hình mặt trời ở chính giữa:
đó là linh vật của người Việt cổ đại).
-
Diềt=Việt=日= là mặt
trời, là nóng + sáng, là Quang + Minh của cổ Việt tộc, tức là tiền Việt mà người
đời nay hay gọi là người gốc “Australoid”. Phát âm “Việt/diềt日” tương
đương âm “Vic” của “victory” bên tiếng Anh/ English, và có quá nhiều biến âm đều
có gốc âm là “Việt”.
Sau nầy “Việt/ diềt日” còn có rất nhiều chữ “Việt” khác tùy theo các phân chi và các vùng của tộc Bách Việt. Tiếng Việt ngày nay đọc là “Nhật日”, rất gần với âm “Diềt日” của người Mân Việt-Triều Châu hiện nay.
Sau nầy “Việt/ diềt日” còn có rất nhiều chữ “Việt” khác tùy theo các phân chi và các vùng của tộc Bách Việt. Tiếng Việt ngày nay đọc là “Nhật日”, rất gần với âm “Diềt日” của người Mân Việt-Triều Châu hiện nay.
-
Chữ Nôm
với âm Nôm có trước là “Diềt日”, chứ không phải là âm “Nhật日” của
Hán Việt.
Và
đây là những đoạn thể hiện ý nghĩa ‘Lửa’ của
Việt: [10]
-
*Việt 粵: Chữ Nôm đọc là “Duyệt粵” ở Quảng Đông. Ngày nay Hán Việt và Việt đọc
là “Việt粵”,
âm Bắc kinh đọc là “Yué粵”
(ghi chú: bên Triều Châu dùng chữ “Việt 越” thay chữ “Việt 粵” nầy). Cách viết chữ “Việt粵” nầy rất giống chữ “dịch易”. chữ
“Việt粵”
nầy là “Hướng 向” về mặt trời Chiếu sáng - với chữ “thể 采”: là “Bẻ” để “biểu hiện ý” của âm “E” là “Yue”
là “Việt”_ bản thân của chữ “thể 采” trong cổ văn thì đó là chữ Nôm nghĩa là “Cháy 采”, chứ “Cháy” là “Mộc 木” đang
phát cháy bằng mấy nét phía trên là ngọn lửa. Tôi là người Mân Việt nên hiểu rõ
chữ “Cháy 采” nầy,(“Cháy 采” còn 1 phát âm khác là “Bẻ 采” để nói
nghĩa khác, và “bẻ” hay “Bén” cũng lại quay về ấm Bén, cháy bén…)…cháy 采- sáng
nguyên 1 vòng cầu tức là “Cầu vòng” mà ngày nay được viết bằng “Thể Hồng-彩 虹” tức là
“Cầu vòng”… nhiều người cứ tưỡng rằng Việt 粵
với bên trong chữ Hướng 向 là “Mễ 米” là gạo…, không phải vậy đâu: Bởi vì nghĩa cuả
“Việt” là “Nhật- Nguyệt” là Quang Minh-Soi sáng… như Trống đồng của Cổ Bách Việt
tộc đã lưu dấu trong lịch sử).
-
*Việt =
“Việt 炎” được viết bằng 2 chữ hoả chung 炎; hình
“Hoả 火” chữ
Viêm “炎” đại diện
cho lửa mặt trời. Bây giờ bị đọc là “Viêm 炎” xưa là “Việt 炎”. Ngày xưa để lại tên “Viêm 炎 Đế” mà
thật ra thì phải gọi là “Việt 炎 ĐẾ”, mà người ta không biết nên gọi là “Viêm Đế”.
Hai chữ 燕 yan và 炎 yan trong tiếng Bắc Kinh phát âm giống nhau và
đều là nói về “Trung
tâm hỏa -Mặt trời”.
-
*Việt =
“Việt 燕”, chữ “yến” 燕 là Hỏa ở trung tâm, các tia sáng tỏa từ 8
phương với chữ có hình mặt trời được đại diện bằng “Khẩu 口” ở
chính giữa, và 4 chấm phía dưới là 4 nét của chữ Hỏa 火.Tự điển
online MDBG-Chinese English Dictionary ngày nay còn biết nguồn gốc và giải
thích chiết tự của chữ “Việt 燕” nầy là “Trung tâm hỏa: 中心火”
chứ không phải là chim Én, “Yến 燕” như cách hiểu bình thường của nhiều người. Việt
nầy biến âm thành Yan, yen, Yến.
Tóm lại, với rất nhiều luận cứ
thuyết phục về mặt ngôn ngữ, có đối chiếu với phát âm giọng Việt, Quảng Đông,
Triều Châu và Quan Thoại… tác giả Nhạn Nam Phi đã lý giải được các ý nghĩa
chính của từ ‘Việt’, đó là:
-
Mặt trời/ Mặt trăng
-
Sáng (cũng chính là Dang/ Dương về cả nghĩa lẫn âm thanh)
-
Lửa/ sức nóng
Các
ý nghĩa này thật ra tuy 3 mà là 1. Mặt trời vừa là lửa, vừa sáng,
vừa nóng.
Từ
nghĩa chính này, lại phát sinh ra nghĩa phụ là ‘Chiếu’, mà tác giả Nhạn Nam Phi
đã có viết như sau: [10]
-
“Nước Triệu趙 âm xưa
là “chiếu趙”, có chữ Nguyệt月 nằm bên phải, có nghĩa là chiếu sáng bởi ánh
trăng, có kinh đô là “Tấn晉 Dương陽”(Tấn晉 là Tiến, Dương 陽 là Việt như đã trình bày.”
(Ý kiến của người viết: Trong chữ Hán còn có chữ
Triều朝, có
nghĩa là ‘sớm mai’ hay ‘sáng’. Chữ
Triều朝 này viết
bằng chữ Nguyệt月,
nếu chữ Nguyệt月 đọc
theo Nôm là ‘Sáng’ như đã nói như giả thuyết, thì chữ Triều朝 ngày
cũng đọc là ‘Sáng’, và nghĩa là ‘Sáng’ luôn. Mà ta cũng có chữ Triều潮/Trào viết
bằng bộ thủy, có nghĩa là nước ‘thủy triều’. Nếu chữ Nguyệt月 mà đọc
là ‘Trăng’, thì có khả năng chữ Triều朝 đó xưa chính là ‘Tràn’, nước tràn chính là thủy
‘triều’! (Mà ‘tràn’ hay ‘trào’ cũng lại là ‘dâng’, lại gần âm và nghĩa với
‘dương’, ta lại thấy rằng trong ngôn ngữ cổ khả năng mặt trăng và mặt trời đồng
âm ‘sáng’ là rất cao)
-
“Việt = Việt越, thể hiện bằng Việt越 này là
vùng ven biển Đông, tên Việt Nam, Mân Việt, Ngô Việt, Âu Việt, Đông Việt, Ư
Việt, Vu Việt, Việt Thường, v.v… “Bách Việt” là dùng chữ“Việt越” này.
Chữ Việt này giữ phát âm “Việt” nhưng khác với tất cả những chữ Việt
khác, và mang ý nghiã là “Vượt + vũ khí trong tay là cái Rìu Việt”.
Nhưng chữ Việt này vẫn là mang ý nghĩa “chiếu越”, chiếu sáng, và hoàn toàn phù hợp với chữ
Nôm có trước. Bô ̣“tẩu走” là chữ “chạy走” ghép với cái “qua戈” là
cái “Rìu”,
thành ra âm “Chiếu越”. Người Việt ngày xưa gọi vua là “chiếu”
hay “chúa” . Chính vì âm “chiếu” mà người Triều châu đọc “iếu越” và
thành “oát越” ngày nay. Và người Dao lại đọc thành Yìu越, còn
lên tới Sơn Đông và Bắc kinh đọc thành “Dù有/ gần giống như “yuồn” (有Hửu)” [10]
(Ý kiến của người viết: Cách lý giải chữ Việt越 ra âm
‘Chiếu’ này rất độc đáo, và người viết thấy rằng có thể áp dụng cho cả chữ Việt
này. Theo tác giả Nhạn Nam Phi, chữ Việt粵 này không phải viết bằng chữ Mễ米 như người
ta hiểu sai, mà là chữ Thải采 và thực
ra phải đọc Nôm là Cháy采 hay Bén
(cháy bén), tượng hình cái cây đang bốc cháy. Như vậy, chữ Việt粵 trên là Cháy, dưới cũng là hình cái Rìu亏, Cháy+Rìu = Chiếu! Hoặc cũng có thể giải nghĩa
chữ Khuy亏 nghĩa là Thiếu, Cháy+Thiếu = Chiếu)
Ngay cả chữ Triệu趙 Thuyết văn cũng ghi là 从走肖聲, tức là
theo âm của Tiêu肖
(gần với Chiếu), hoặc chữ Tẩu走 đừng đọc theo âm sau này là Tẩu, mà hãy đọc âm
Nôm là Chạy, thì cũng ta có Chạy+Tiêu=Chiếu!)
Sau
thời Tam Quốc, thì kề bên (khu vực Vân Nam và Bắc Việt ngày nay) bắt đầu nổi
lên nước Nam Chiếu [11], chống lại sự thống trị của nhà Tùy, Đường
(đã bị người Hồ xâm nhập). Tại sao lại có nước Nam Việt/Chiếu của họ Triệu/Chiếu (Đà), rồi sau đó lại có nước
Nam Chiếu kề bên? Quá là trùng hợp. Tác giả
Nguyễn Văn Huy cho rằng đó là người Điền Việt lánh nạn xuống phương Nam chạy và chống giặc Hồ, rồi sau
này một phần cũng di cư qua Giao Chỉ và giành độc lập thành công, trở thành nước
Ngô rồi Đại Cồ Việt [12]. Đây là một mấu chốt quan trọng vì lịch sử Việt Nam
trước thời Ngô Quyền khá mơ hồ, mà Nam Chiếu lại nằm đúng thời kỳ này. Người viết
cho rằng cần phải nghiên cứu thêm vấn đề này thêm trong tương lai.
Trong
tiếng Việt, động từ ‘Chiếu’ luôn
đi với ‘Sáng’,
là ‘Chiếu
Sáng’ (đến thế kỷ 20 mới có cụm từ
‘chiếu bóng’). Trong tiếng Anh, có chữ ‘Shine’ có nghĩa là ‘chiếu’, đọc là
/sai(n)/, nếu đọc nhanh thì nghe gần như ‘san’, tức là khá giống ‘Sáng’.
a) Tên người Dao/ Dìu Miền
liên quan đến ‘Sáng’
Ở
miền Bắc Việt Nam, Lào, Thái, Myanmar và Trung Quốc ngày nay có một dân tộc gọi là người Dao hay Dìu Miền. [13]
Cũng
trong bài chữ ‘Chữ Nôm
cổ xưa và ý nghĩa của Việt’, tác giả Nhạn Nam Phi cho rằng ‘Dao’ cũng
chính là Việt: [10]
-
* Việt = Việt瑤
,thể hiện bằng chữ “Dao 瑤”, âm chính của người thời
nay được đọc bởi chính người Dao thì đọc là “Dìu 瑤”,
Diêu, Diều, yiu gần với âm “diệt” mà đọc theo dấu “huyền” cho nhiều là thành
“Diều 瑤”. Chữ Việt 瑤/
Dao/ dìu nầy có bộ “nguyệt月” phía trên, bên góc phải.
Đây cũng là chữ Nôm có trước, ngày xưa đọc “Dìu” hay “Diềt” .
-
Người Dao 瑤
hay chính xác gọi theo người Dao 瑤 hiện nay tự xưng hô mình là
người “Yíu 瑤 Mien”, ”Dìu mien/ diềt
mien”, thật ra là giống nhau với “Việt Mân”, hay là Mân Việt như người Triều
Châu và Phước Kiến. Ngôn ngữ của người “Dao 瑤
Việt” hiện nay là sự pha trộn bởi tiếng Triều Châu, Quảng Đông, Thái, Việt,
Lào. (Tôi có nhiều tiếp xúc với người Dao 瑤
từ xưa và nay, nên nhận rõ điều này.)
Tác
giả Nhạn Nam Phi cho rằng ‘Miền’ trong tên tự gọi của người Dao là ‘Mân’, trong
chữ Mân Việt, nhưng không thấy giải thích Miền/Mân là gì.
Chữ
Mân 閩 này ngày
nay tự điển chỉ ghi nghĩa là họ Mân, Mân Việt (một dân tộc Việt sống chủ yếu ở
vùng Đông Nam Trung Quốc, trong đó có người Phúc Kiến và Triều Châu), như vậy
là không rõ nghĩa gốc của ‘Mân’ là gì.
Người viết cho rằng có khả năng Mân/Miên thực ra chỉ là cách đọc khác của Minh明, cũng
có nghĩa là Sáng (phù hợp, vì là Việt, mà Việt là Sáng). (ở phần
trên đã có trích dẫn wiktionary cho thấy Minh còn có cổ âm là /mˠiæŋ/, tức là
‘Mieng’) Còn chữ Mân閩
viết bằng bộ Trùng虫
trong đó, có thể lại là một kiểu viết xấu của người Hán đối với các dân tộc ít
người, giống kiểu viết về người Choang vậy. Trong trường hợp này thì ta nên xét
kỹ về âm và nghĩa, không nên quá đặt nặng vào mặt chữ.
b) Tên người Tráng/ Choang
liên quan đến ‘Sáng’
Ở
Trung Quốc ngày nay có một dân tộc gọi là người Tráng hay người Choang.
Theo
wikipedia
tiếng Việt về người Tráng thì họ là một dân tộc khá đông người (đến 18
triệu người tức là bằng một quốc gia nhỏ), sống chủ yếu ở tỉnh Quảng Tây (tên đầy
đủ là Khu tự trị dân tộc Choang Quảng Tây). Người Bố Y ở Trung Quốc, người Nùng
và người Tày ở Việt Nam cũng chính là người Choang, có sự phân chia chẳng qua
do yếu tố chính trị và vị trí địa lý. [14]
Điều
có thể khẳng định, đó là người Choang là 1 tộc thuộc Bách Việt, xét theo vị trí
địa lý sinh sống và văn hóa. Đây là điều gần như không có ai bàn cãi, và các
nghiên cứu di truyền học cũng cho thấy điều này. Một bằng chứng cụ thể là người
Choang cũng có trống đồng, và biểu tượng tôn giáo tối cao của họ là Bu
Luotuo (Bố Lạc Đà) có hình giống hệt mặt trống đồng mà người Việt
Nam thường biết. [15] [16]
Trống đồng của người Choang. Nguồn: https://en.wikipedia.org/wiki/Zhuang_customs_and_culture#Stories.
Ngày nay
người Choang vẫn còn giữ nhiều câu chuyện cổ và các điệu múa trống đồng. Theo
wikipedia, người Choang có câu chuyện cổ kể rằng nguồn gốc
trống đồng như những ngôi sao, và ngôi sao cũng là biểu tượng chính giữa của
trống đồng. [15] Có lẽ giới nghiên cứu người Việt cũng nên tham khảo thêm ý kiến
của người Choang về vấn đề này khi nghiên cứu trống đồng.
Về
mặt từ ngữ, ngày nay Trung Quốc gọi người Choang là Zhuang, viết bằng chữ Tráng壮 (mạnh mẽ).
Tuy nhiên, đây chỉ là 1 danh từ được đặt ra vào thế kỷ 20, để thay thế cho các
chữ Đồng 獞 (có bộ
Khuyển犭 nghĩa
là chó) và Đồng 僮
(nghĩa là ‘con nít’), bị cho là có tính bôi xấu. [14]
Trên
thực tế, âm Zhuang của người Hán là đọc lại từ tiếng người Choang tự gọi mình
là Cuengh (phiên âm bằng chữ Latin), tức là gần giống âm Choeng,
nên người Việt gọi là Choang, và Thái gọi là Chuang. [14]
Như
vậy, người viết tin rằng trường hợp này gần giống trường hợp chữ ‘Lạc’ (nghĩa là ‘nước’)
đã phân tích (trong bài ‘Thử giải nghĩa ‘con Rồng cháu Tiên’’), đó là những chữ
người Hán dùng để chỉ người Choang đều là chữ ký âm,
để truyền đạt âm đọc của 1 tên gọi riêng, chứ không nói lên ý nghĩa của cái tên
đó.
Theo
người viết, vì người Choang là một trong Bách Việt, thì âm Choang có lẽ phải được
giải thích theo tiếng Nôm.
-
Trong
tiếng Việt ngày nay còn cách dùng chữ ‘sáng choang’, ‘chói chang’ (= chói
sáng)…
-
Cho
nên âm Choang (hay ‘Chang’) có lẽ cũng chính là ‘Sáng’.
-
Ở
phần dưới khi phân tích các chữ mang nghĩa ‘Sáng’, sẽ thấy xuất hiện những chữ có âm ‘Choang’.
Điều này sẽ giúp củng cố giả thuyết này.
Trong
tộc Choang, có 1 nhân vật nổi tiếng ở cả Trung Quốc lẫn Việt Nam, đó là Nùng Trí Cao (hay Nông Trí Cao). Vào thời
Lý Thái Tông, Nùng Trí Cao nổi dậy ở đất Cao Bằng, mong muốn gây dựng một đất
nước của người Choang, đặt tên là Đại大 Lịch 曆. [17]
-
Chữ
Lịch曆 này chính là trong chữ ‘lịch
sử’, ‘lịch pháp’.
-
Chữ
Lịch曆 trong đó có chữ Nhật日 – mặt trời và chữ 2 Hòa禾 – lúa. Đây là chữ rất thú vị, cho thấy rằng việc
làm lịch là dựa trên cơ sở quan sát thiên văn, và do nhu cầu của trồng trọt mà
ra. (Điều này cho thấy nền văn minh Trung Nguyên cổ vốn là văn minh trồng trọt,
khác với du mục Hung Nô phương Bắc)
-
Như
đã nói về ý nghĩa của Việt là ánh sáng quang minh của Mặt trăng/ Mặt trời, việc
Nùng Trí Cao đặt tên nước là Lịch曆 có Mặt
trời trong đó thể hiện tiềm thức này.
a) Chữ Minh明 nghĩa là Sáng
Ở
trên đã có trích dẫn Thuyết văn giải nghĩa Dương陽 là Minh明 (tức là Sáng):
Tại
sao Dương/Sáng lại là Minh? 2 chữ này âm khác nhau như vậy, thì âm ‘Dương’ từ
đâu ra? – Người viết xin đặt giả thuyết:
chữ Minh明 ngày xưa âm Nôm đọc là Tháng/ Sáng!
-
Theo
wiktionary, chữ Minh明 âm cổ phục nguyên (Old Chinese) là /*mraŋ/.
Vì m~b, r~l, nên âm *mrang này
tương đương với âm blang, blăng, cũng chính là cổ âm của tlăng, trăng, tháng! Đến
âm Trung đại (Middle English) thì ghi là /mˠiæŋ/ tức là mi-ang! Rồi từ âm mi-ang này mới
dần biến thành Mang/Mênh và thành âm Minh明 ngày
nay! [18]
-
Lưu
ý rằng tiếng Hoa lướt mất âm ‘r’, nên *mrang đọc thành mang, mênh, rồi thành
Minh. Nhưng ta hoàn toàn có thể cho rằng có 1 phương ngữ khác ở phương Nam đã đọc
*mrang lướt âm m thành ‘rang’, tức là Rạng/Dang昜/Sáng! Điều này phù hợp cả về âm lẫn
nghĩa.
o
Ta
lại có chữ名, âm Hán Việt ngày nay đọc là
Danh, âm Quan Thoại là Ming. Trong khi đó, Thuyết văn chữ Danh名 còn ghi thêm âm là Vũ武Tinh并 thiết,
tức là Vinh! Điều này chứng tỏ Danh ~ Vinh ~ Minh. [19]
o
Như
vậy, hoàn toàn có khả năng chữ Minh明 từng có
âm là Dang/ Rạng/ Sáng.
-
Ngoài
ra, chữ Minh thường được giải thích là loại chữ biểu ý, lấy mặt trời và mặt
trăng biểu ý ‘sáng’. Nhưng loại chữ như vậy thường làm thành 1 chữ riêng không
thuộc bộ nào trong những chữ ghép thành nó. Trong khi đó, chữ Minh明 lại được xếp vào bộ Nhật. Điều đó cho thấy chữ
này cũng có khả năng là loại chữ hình thanh, tức là âm đọc theo chữ Nguyệt月:
o
Chữ月 ngày nay đọc là Nguyệt. Nhưng
chưa chắc ngày xưa đã đọc là ‘Nguyệt’, mà hoàn toàn có thể đọc là ‘Trăng’
hay ‘Tháng’ (nhắc
lại khám phá của tác giả Nhạn Nam Phi: tiếng Nôm có trước, và chữ Hán xưa vốn
là chữ Nôm, đọc theo âm Nôm trước khi bị đổi thành âm Hán-Việt sau một thời
gian dài). Âm ‘Tháng’ và ‘Sáng’ đổi cho nhau nên chữ Minh đã đọc là Tháng/
Sáng!
o
Âm
‘Th’ và ‘S’ này giống trường hợp chữ Thang湯 (vua
Thang) đã trình bày ở trên (ngày nay cũng còn âm là ‘Sang’).
b) Một số chữ tượng hình
giáp cốt mang nghĩa ‘Sáng’
Trong phần này sẽ tiến hành phân tích các chữ cổ,
để hiểu cách người xưa biểu ý ‘Sáng’ như thế nào.
(Ghi chú
một số loại chữ trong tự điển từ nguyên online Hanziyuan.net:
-
Oracle character là Giáp cốt
văn. ‘Giáp cốt văn’ nghĩa là chữ khắc trên xương
(hay mai rùa), còn ‘Oracle’ là vì thường dùng trong bói toán, chiêm bốc. Loại
chữ này có vào thời nhà Thương (bắt đầu xuất hiện cụ thể khi nào thì chưa rõ). [20]
-
Bronze character là Kim văn.
‘Kim văn’ là chữ khắc trên đồ kim loại, thường là các đỉnh bằng đồng (bronze),
nên cũng gọi là ‘Chung đỉnh văn’. Loại chữ này dựa trên Giáp cốt văn, xuất hiện
từ cuối nhà Thương và phát triển mạnh vào đầu thời Chu. [21]
-
Seal character là Chữ triện.
Loại chữ này phát triển từ Kim văn từ thời Chiến quốc (được cho là bắt đầu từ
nước Tần), và được dùng rộng rãi vào thời nhà Hán. Dạng chữ này có thể tìm thấy
trong sách Thuyết văn giải tự. [22]
-
Liushutong character là các dạng
chữ cổ được ghi chép lại trong sách
Lục六
Thư書
Thống統
của Dương楊 Hoàn桓 thời nhà Nguyên.) [23]
Chữ Minh朙:
Trong Thuyết văn giải tự, viết chữ Minh là 朙
[24], đây là một tự dạng khác của chữ Minh明 thường
gặp. Wiktionary chữ Minh明 cho biết chữ Minh朙 này xuất hiện từ thời chữ Giáp cốt văn (tức là
rất cổ, thời nhà Thương), được Thuyết văn dùng làm dạng chính. (Ngoài ra còn chữ
Minh viết bằng chữ Nhật -明 và Điền -𤰾
là dạng chữ cũng có từ thời Giáp cốt văn, các chữ này đồng âm đồng nghĩa, chỉ
viết khác chút đỉnh.) [25] Người viết xin chọn lọc 1
số chữ tượng hình của chữ Minh朙, để làm rõ cách biểu ý
‘Sáng’ của người xưa [26]. Người đọc có thể tham khảo thêm các dạng tự khác từ
trang web https://hanziyuan.net/#朙.
Chữ Quýnh囧:
Như vậy, chữ Quýnh囧 tương đương và đã được dùng thay cho chữ Nhật日 – mặt trời, để thể hiện ý là ‘Sáng’. Chữ Quýnh囧
này Thuyết văn ghi nghĩa là: 窻牖麗廔闓明, [27] có nghĩa là ‘cửa sổ mở
ra sáng’. Tự điển từ nguyên online chữ Quýnh囧 cho thấy dạng cổ chữ này thực sự giống hình mặt
trời. [28]
Chữ Quýnh冏:
Tự điển Hán Việt lại cho biết chữ Quýnh囧 này là một dạng viết khác của chữ Quýnh冏, có nghĩa là ‘sáng
sủa’. Tự điển từ nguyên online của chữ Quýnh 冏 cho biết chữ này viết từ chữ Khẩu口 (nghĩa là cửa) và chữ Huyệt穴 (cái lỗ, hang) ở trên. Chữ này thì lại thể hiện
mặt trời (hình vuông ở dưới) chiếu qua ô cửa (hình chữ Huyệt穴 ở trên)! [29] Có vẻ như 2 chữ Quýnh囧 và Quýnh冏 đã bị sử
dụng lẫn lộn, nhưng nhìn chung cả 2 đều liên quan đến ý là SÁNG. Nhìn hình chữ
giáp cốt Quýnh冏 bên dưới, ta thấy rằng thực
ra trong dạng chữ cổ của Quýnh冏 thì chữ Khẩu口
ở dưới thực ra chính là mặt trời, tức là chữ
Quýnh 囧, bằng hình vuông để biểu ý là ‘Sáng’.
Chữ Song窗:
Ngày nay, ta cũng có chữ Song窗, cũng nghĩa là ‘cửa sổ’, cũng viết bằng chữ
Huyệt ở trên (tượng trưng khung cửa) bao quanh một cái vòng tròn nhỏ ở dưới (tượng
trưng mặt trời). Tự điển từ nguyên online chữ
Song窗 chỉ có tự dạng chữ triện, mà
không rõ chữ giáp cốt và kim văn của chữ Song như thế nào. [30] Nhưng có lẽ ta
có thể đoán được rằng chữ giáp cốt của Song窗 chính
là chữ Quýnh囧 hay Quýnh 冏, bởi lẽ cũng có chữ Huyệt ở trên, và biểu tượng
tròn/sáng ở dưới.
Chữ Huỳnh炯:
Ngoài ra, còn có 1 chữ Quýnh nữa viết bằng bộ hỏa,
đọc là Huỳnh炯. Tự
điển tự nguyên chữ Huỳnh炯 này cho biết chữ Huỳnh ngày
nay viết bằng Hỏa火+ Quynh冋, nhưng
ngày xưa hơn viết bằng Hỏa火 + Quýnh冏, tức là Huỳnh烱. [31] Chữ Huỳnh炯 hay烱 cũng có
nghĩa là ‘Sáng’. Việc ghép thêm bộ Hỏa dường như không cần thiết, có vẻ như người
Hồ khi bắt đầu học tiếng Việt đã ghép thêm vô cho dễ nhớ nghĩa.
Ta thấy rằng các chữ Quýnh 囧, Quýnh冏, Song窗, Huỳnh炯 này đều thể hiện là khung cửa có mặt
trời chiếu qua, thể hiện ý ‘Sáng’.
Âm ‘Quýnh’ cũng là ‘Quang’
~ ánh Sáng. Quýnh đọc thành ‘Kuýnh’ thì thành ‘Ki-ong’ hay ‘Công’. Còn nếu
Quýnh đọc thành ‘Vinh’ thì lại trở thành ‘Minh’朙. Chữ Song 窗 thì ngoài âm ‘Công’ lại có âm là ‘Chuang’, tức
là ‘ChSoang’. Có lẽ đó chính là tiếng Nôm ‘Sáng’. (chỗ này củng cố giả thuyết tên gọi của
người Choang là ý ‘Sáng’)
Cửa sổ là cái cửa sáng, mở ra để cho sáng! ‘Sổ’ trong ‘cửa sổ’ nghĩa là
gì, là ‘mở ra’ (xổ), hay là ‘sủa’ trong ‘sáng sủa’ chăng?
Trong tiếng Việt lại có cách dùng là mở ‘toang’ ra, cũng là giang/dang
(dương) ra, mà đã mở ‘toang’ ra thì dĩ nhiên là ‘sáng’.
Chữ Lượng亮:
Chữ Lượng亮: tự điển
giải nghĩa Minh明 Lượng亮 nghĩa là ‘sáng láng’.
-
Minh明 là Sáng, Lượng/Lạng亮 là Láng (âm Li-ang). Vậy Minh Lượng là Sáng
Láng theo
đúng trật tự ngữ pháp tiếng Nôm!
-
Tại
sao lại có cách dùng từ ‘sáng láng’? Có lẽ
vì Sáng ~ Trắng/Trăng xưa có âm Tlang, nên người ta dùng cách ghép ‘Sáng Láng’
chăng?
-
Chữ
Lượng亮 này nửa phía trên viết theo
chữ Cao高, ý là ‘Cao thì Sáng’.
-
(Chữ
Lượng亮 này chính là tên của Gia Cát Lượng thời Tam quốc. Gia Cát Lượng lấy hiệu Khổng孔 Minh明. [32] Lượng亮 và Minh明 đều là
Sáng. Trong phần phụ lục có bàn thêm về Gia Cát Lượng.)
Chữ Cao高:
Xem hình cổ
văn chữ Cao高, ta thấy rõ rằng chữ Cao高 hàm ý ‘Cao thì Sáng’ trong đó, vì vẽ hình một cái
đài cao có mặt trời chiếu qua khung cửa tương
tự như những chữ ta đã phân tích ở trên.
-
Ở
phần trên đã có trích dẫn Thuyết văn giải nghĩa chữ Dương陽 nghĩa là Cao高 Minh明, điều
này càng cho thấy là Cao và Sáng có liên quan đến nhau. Hễ lên cao thì gần mặt
trời, và gần mặt trời thì sáng
Một vài chữ khác:
Chữ Thông聰:
chữ này cũng có nghĩa là ‘Sáng’, hay ‘Suốt’. Thông聰 Minh明 nghĩa
là Sáng Suốt. Tiếng Việt còn dùng từ ‘sáng trí’, chính là ý này.
-
Chữ
này viết bằng bộ Nhĩ耳 + chữ Thông悤 .
-
Mã
chữ Thông悤 này rõ ràng viết bằng bộ Tâm心 + chữ Song囱 là cái
cửa sổ, là một dạng ngắn gọn của chữ Song窗 mà ta đã tìm hiểu ở trên.
Chữ Bạch白 có nghĩa là Trắng,
và cũng có nghĩa là (Trời) Sáng. Tại sao lại như vậy? Đơn giản là vì ‘Trắng’
và ‘Sáng’ (và Trăng/Tháng) gần như đồng âm và đồng nghĩa trong tiếng Nôm.
-
Nghĩa
là ‘trắng’ mà lại dùng thành (trời) ‘sáng’, sự nhầm lẫn này tương tự như chữ
Minh明 (nghĩa là sáng, mà lại dùng như sang
(ngày))!
-
Điều
này cho thấy tiếng Hoa bắt nguồn từ tiếng Nôm, nhưng đã bị đơn giản hóa và dùng
nhầm lẫn bởi người Hồ (và bắt đầu thấy được từ thời nhà Chu).
c) Tên nhà Thương/Thang商cũng có nghĩa là ‘Sáng’
Nhà Thương商
là triều đại tiếp sau nhà Hạ夏và trước nhà Chu周. [33] Đây là triều đại của người Việt mà bây
giờ người ta tưởng nhầm rằng là triều đại của người Hán chỉ vì lãnh thổ nhà Chu
nằm trên đất Trung Nguyên, thuộc lãnh thổ nước Tàu ngày nay. Vấn đề nằm ở chỗ
thời nhà Thương (trên 3.600 năm trước), thì vùng Trung Nguyên toàn là người
Bách Việt, người Hồ còn thả ngựa chăn dê ở đồng cỏ Siberia phương Bắc, có lẽ
còn chưa đặt chân đến đây hoặc chỉ có một số rất ít.
-
Ông
vua Thành Thang湯 sáng lập nhà Thương là ông vua họ Tử/Chử子 (liên hệ với sự tích Chử Đồng Tử), tên Lí/ Lộc履, có khả năng là con Út nên gọi là Thiên Ất乙/ Đại Ất乙 (tác giả
Nhạn Nam Phi cho rằng Giáp/ Ất là Cả/ Út trong tiếng Nôm). [34]
-
Vua
cuối cùng của nhà Thương là Trụ Vương tên thật là Tử Thụ/ Chử Thụ, xưa gọi là Đế
Tân, theo cấu trúc ngôn ngữ Việt (chính trước phụ sau), chỉ sau này tiếng
Trung Quốc bị biến đổi, mới trở thành ‘Trụ vương’ ngày nay mà thôi. [35]
-
Thành
Thang đặt kinh đô nhà Thương ở đất Bạc亳, sau này dời qua đất Ân (khu mộ nhà Thương ở đất
Ân ngày nay gọi là Ân Khư) ở An安 Dương陽 (đều
thuộc tỉnh Hà Nam). [33] [36]
Trong
bài viết ‘Bách Việt sử: Những lớp bụi mờ
của lịch sử’,
tác giả Nhạn Nam Phi đã chứng minh bằng dấu vết của ngôn ngữ rằng nước Văn Lang cực kỳ
rộng lớn, bao gồm cả Thương lẫn Sở và cả Dạ-Lang,
Lang-Sang... [37]
-
Văn-Lang
là tên gọi quốc gia của người Việt ở Việt Nam trong
cổ sử.
Liên hệ mật thiết với cây Tân-Lang là cây Cau, “Van – Tân – Lang” rút gọn là Van-Lang, là “Vạn萬 - Lang榔” (Vạn cây Cau) rồi đọc thành ngắn gọn, thì trở thành Văn-Lang! -Mộc 木 ghép với chữ Lang 郎 là thành chữ Lang 榔 của cây tân 檳 - Lang 榔. Trầu_Cau lại là “Sơ 疋 _ Tân 檳 - Lang 榔” mà phát âm nhanh rút gọn lại là “Sang” (疋檳榔 = 疋木木=楚) Hay “Shan”, Lang có nghiã Tân Lang là Cây Cau như ở nước Sở ? Hay nghĩa Lang-sang là nhiều Voi ?
Liên hệ mật thiết với cây Tân-Lang là cây Cau, “Van – Tân – Lang” rút gọn là Van-Lang, là “Vạn萬 - Lang榔” (Vạn cây Cau) rồi đọc thành ngắn gọn, thì trở thành Văn-Lang! -Mộc 木 ghép với chữ Lang 郎 là thành chữ Lang 榔 của cây tân 檳 - Lang 榔. Trầu_Cau lại là “Sơ 疋 _ Tân 檳 - Lang 榔” mà phát âm nhanh rút gọn lại là “Sang” (疋檳榔 = 疋木木=楚) Hay “Shan”, Lang có nghiã Tân Lang là Cây Cau như ở nước Sở ? Hay nghĩa Lang-sang là nhiều Voi ?
-
"Vạn-Tân-Lang"
thì đúng nghĩa ở nơi nhiều cây Cau, “Van-Lan-Sang” - “Vạn-Tượng”
thì đúng nghĩa ở nơi nhiều Voi. Nhưng, ... càng lên cao về hướng Bắc
thì không còn có cây Cau mà cũng không có Voi ; vậy mà có nước
Sở tên là *Shan 楚,
và Triều Thương cũng tên là Shan 商
-
Đó
cho thấy bằng chứng Văn-Lang là 1 đại quốc có nguồn gốc từ phương nam
tiến lên bắc.
-
Văn-Lang bắc tiến từ phía nam đi lên, đến vùng Vân Nam, Quý châu, Tứ xuyên, và 1
phần của Hồ Nam, Hồ Bắc thì tiếng địa phương gọi là
"Dạ-Lang". Bởi vậy trong cổ sử có nước Dạ-Lang 夜郎 ở vùng nầy. Mà hiện giờ dân tộc Bố-Y có ngôn ngữ nửa giống như tiếng Bắc kinh
và phân nửa giống tiếng Việt là đại diện tiêu biểu của "người
Dạ-Lang".
-
Văn-Lang
tiến đến 1 Phần của 湖南 Hồ
Nam、湖北Hồ Bắc、重庆Trùng
Khánh、河南 Hà Nam、安徽An
Huy、江苏Giang Tô、江西Giang
Tây v v... thì tiếng địa phương gọi là Shan楚 rồi bị đổi ra gọi là Sở, có lẽ
cách đọc phải thay đổi vì có 1 “Shan” khác thường được tiếng Việt gọi là
Triều “Thương” và viết là 商 Shan đã bị mất vào tay nhà Chu nên húy kỵ chăng?
cách đọc phải thay đổi vì có 1 “Shan” khác thường được tiếng Việt gọi là
Triều “Thương” và viết là 商 Shan đã bị mất vào tay nhà Chu nên húy kỵ chăng?
-
(chỉ xin trích vài đoạn, độc giả nên đọc thêm
bài viết ‘Bách
Việt sử: Những lớp bụi mờ của lịch sử’, đây là bài rất hay và
có ý nghĩa lớn đối với lịch sử Việt tộc trải dài từ Bắc xuống Nam, qua hàng
ngàn năm)
Tuy
nhiên, ta thấy rằng mặc dù đã khám phá được Sở, Thương là Văn-Lang, tác giả Nhạn
Nam Phi cũng tự thắc mắc rằng: ‘Lang có
nghĩa Tân Lang là Cây Cau như ở nước Sở?, hay nghĩa Lang – sang là nhiều Voi?
Văn – Lang ở Việt Nam nghĩa là “Vạn Tượng” hay “Vạn Tân Lang” ???’Theo người viết, thì không phải ‘voi’ (tượng), cũng chẳng phải ‘cau’ (tân-lang), mà thực ra là ‘Sáng’ (các ý nghĩa về ‘voi’, ‘cau’ nếu có thì chỉ là những nghĩa đã bị hiểu lầm theo thời gian). Người viết sẽ chứng minh luận điểm này bằng việc giải nghĩa một số chữ liên quan đến nhà Thương.
Tượng hình chữ Thương商 có ý Sáng trong đó.
-
Tương
tự như những chữ trên, ta sẽ tra Tự điển từ nguyên online chữ
Thương商, [38] để xem Giáp cốt văn và
Kim văn viết chữ Thương như thế nào.
Chữ
Thương商 cổ. (nguồn: https://hanziyuan.net/#商)
-
Nửa
phía trên có nhiều hình dạng, khó mà biết là chữ gì (có thể là chữ Vương王, nghĩa là vua hay thịnh vượng). Còn nửa phía
dưới, ta có thể thấy rõ đó chính là chữ Quýnh冏 mà ta đã phân tích kỹ ở trên,
thể hiện ý ‘Sáng’ với mặt trời chiếu qua khung cửa.
-
Phóng
to 2 chữ Thương商 và Quýnh冏 ngày nay lên ta cũng rõ được điều này.
-
Ngoài
ra, ta cũng thấy có những chữ Thương商 cổ viết
khá giống chữ Cao高.
-
Như
vậy: người viết cho rằng về mặt tượng hình, đã chứng minh được chữ Thương商 có ý
nghĩa liên quan đến ‘Sáng’.
-
Tự
điển Thiều Chửu còn cho biết 1 nghĩa có liên quan của chữ Thương商 đó là: ‘Sao thương, tức là sao hôm’. [39]
-
Sao
Hôm và sao Mai là 2 cái tên dân gian, ngày nay Thiên văn gọi là sao Kim, tiếng Anh là Venus. Đây là ngôi sao sáng
nhất trên bầu trời, có thể nhìn bằng mắt thường, xuất hiện lúc bình minh
gọi là sao Mai, hoàng hôn gọi là sao Hôm. [40]
-
Trong
chiêm tinh phương Đông, đây còn gọi là sao Thái太 Bạch白 (Kim tinh). Bạch là Trắng, mà cũng là Sáng như đã phân tích ở trên. Cho nên
Thái Bạch = Sáng Nhất, rất phù hợp để gọi tên sao này. [40]
-
Trong
tiếng Latin, tên sao này gọi là Lucifer, xuất phát từ tên tiếng Hy Lạp
nghĩa là ‘người mang buổi sáng tới’ tức
‘dawn-bringer’
(gốc chữ lux- nghĩa là ánh sáng, ngày nay lux được dùng làm đơn vị đo độ rọi
ánh sáng), hay còn gọi là morning star (tương đương ‘sao mai’). (Chỉ từ
thời Phục Hưng, đặc biệt là với loạt thơ tưởng tượng Divine Comedy của Dante,
người ta mới gán nghĩa Lucifer thành Satan và Ác quỷ. Đây là 1 sự sai lầm của
thần học.) [41]
-
Như
vậy, sao Thương là sao Kim, mà từ
Đông sang Tây đều gọi sao Kim là Sáng,
vì là sao sáng nhất bầu trời. Điều này càng chứng minh ý nghĩa Sáng của chữ Thương商.
Thương商 lại còn 1 nghĩa là ‘Sang’:
-
Tự
điển Thiều Chửu còn cho biết 1 nghĩa có liên quan của chữ Thương商 đó là: Buôn. Như thương nhân 商人
người buôn, thương gia 商家
nhà buôn, v.v.
[39]
-
Như
vậy, Thương có nghĩa là buôn, là bán. Hoạt động ‘bán’ một cái gì đó còn một chữ
nữa, đó là ‘sang’ (nhượng). Như vậy người Hoa đã nhầm giữa ‘Sáng’ và ‘Sang’,
cho nên gắn cả 2 nghĩa này cho chữ Thương商.
Bên cạnh
đó, tên vua
Thành Thang sáng lập nhà Thương và 1 ông tổ vua Thang cũng liên quan đến ý này:
-
Ở
phần trên, người viết đã có trích dẫn
Thuyết văn giải tự, cho thấy, chữ Thang湯 (tên của vua Thang湯) là loại chữ hình thanh, đọc theo âm của
chữ Dương/Dang 昜 (Sáng).
o
Chữ
Thang 湯 đọc
theo âm chữ Dương/Dang昜, nhưng có thêm bộ Thủy氵. Ngày nay chữ này mang nghĩa là ‘nước nóng’,
hay ‘thuốc thang’. Nhưng xét về chữ và âm, có khả năng ngày xưa đó chính là chữ
Nôm Sáng/Sánh湯 trong sóng sáng/
sóng sánh, ý là mặt nước phản chiếu ánh sáng
loang loáng.
o
Ông
vua Thang, cũng là ông ‘vua sáng’, có thể nào đó là cách gọi Nôm xa xưa của từ ‘minh明 quân君’ sau
này?
-
Ông
tổ vua Thang có 1 người gọi là Chiêu昭 Minh明. Chữ Minh明 nghĩa
là sáng. Chữ Chiêu昭 viết bằng bộ Nhật日, cũng có nghĩa là sáng sủa, rõ rệt, rõ ràng
chính là tiếng Nôm – Chiếu (sáng). Như vậy tên ông Chiêu昭 Minh明 chính
là ‘Chiếu Sáng’. [42]
-
(Chữ
Chiêu Minh khiến người viết nhớ lại là ở Việt Nam đầu thế kỷ 20 có một tôn giáo
được thành lập, gọi là đạo Cao Đài, Tòa thánh chính đặt ở tỉnh Tây Ninh. Người được
xem là anh cả của đạo là ông Ngô Văn Chiêu, ông lấy tên đạo là Minh Chiêu. Vì chỉ chuyên
tâm tu tập, ông hình thành chi phái Cao Đài Chiếu Minh [43]. Chữ Chiếu照 này có thêm bộ Hỏa, nghĩa là ‘chiếu
sáng’, ‘soi sáng’. Việc ghép thêm bộ Hỏa cho chữ Chiêu昭để thành chữ Chiếu照 này có vẻ như cũng thừa, giống trường hợp chữ
Huỳnh炯)
Như tác giả Nhạn Nam Phi đã chỉ ra, nhà Thương là một phần của
Văn-Lang, tức là thuộc Bách Việt (nhắc lại: lúc này người Hồ còn sống ở đồng cỏ Siberia phương Bắc).
Việt nghĩa là sáng, Thương cũng nghĩa là sáng, như vậy là
phù hợp (hơn là ‘voi’ hay ‘cau’).
d) Văn-Lang là Dạ Lang, là
Lang Sang, Liệt San, Sở, Thương…
Như vậy, đến đây ta có thể thấy rõ rằng âm Lang
của Văn-Lang, Dạ Lang, Lang Sang, Liệt San… thực ra đều quy về cổ âm *rang (t-rang/ chrang/ drang…)
tức cũng là Rạng ~ Sáng.
Chữ Tượng (voi) và Tân-Lang (cau) có lẽ đã bị
nhầm, vì đồng âm với ‘Sáng’ (nhưng khác nghĩa).
-
Chữ
Tượng象 (con voi) thì gần với
Thương, và giọng Quan thoại đọc là Xi-àng, tức là gần với âm ‘Sáng’. Con voi
tuy là loài vật to lớn hùng tráng, nhưng dĩ nhiên là không thể nào so sánh với
sự vĩ đại của Mặt trời được.
o
Dựa
trên chữ Tượng象 (con voi) đó, lại có chữ Tượng像, nghĩa là ‘hình tượng’ và ‘giống’. Tại sao Tượng像 vừa có nghĩa là ‘hình tượng’ vừa có nghĩa là
‘giống’?
§
Đó
là vì (Hình) Tượng = (Hình) Dạng/Dáng
§
Dáng
~ Giáng ~ Giống
-
Còn
chữ Tân檳 Lang榔 (cây cau) thì cả Tân檳 lẫn
Lang榔 đều vô nghĩa, cho nên đây chắc
chắn là chữ ký âm. Tân-Lang ~ Tlang ~ Trang ~ Trăng/ Sáng/Chàng… Cây cau (lá trầu)
là 1 nét văn hóa của người Việt, nhưng cũng chỉ là 1 trong vô vàn nét văn hóa
khác, không có ý nghĩa thực sự to lớn, càng không thể so với Ánh sáng Mặt trời.
-
Tại
sao lại gọi cây Cau là cây Tân-Lang? Khó khẳng định, nhưng có 1 giả thuyết rằng
cây Cau = Cu, vì có hình dạng thẳng dài giống bộ phận sinh dục đàn ông, nên
cũng có cách dùng từ Tân新 Lang郎 là ‘chàng rể’. Tuy nhiên, theo người viết, thì
có khả năng cây Cau = cây Cao (cây Cau có thể cao đến 20m, tức là bằng tòa nhà 5-6 tầng).
Mà như ta đã biết, Cao có hàm ý Sáng trong đó (cao thì sáng), cho nên cây
Cau/Cao lại gọi là cây Sang/Tlang.
o
Như
vậy, ‘Lang-Sang’ là nhiều voi, hay thực ra là ‘Sáng Láng’ chăng?
-
Tác
giả Nhạn Nam Phi đã đề cập đến các nước Việt cổ:
Văn-Lang, Lang-Sang, Dạ-Lang, Shan/Sở 楚, và Shan 商, và cho rằng Liệt-San là phiên âm của
Lang-Sang, tức là Lan(g).
o
Tuy
nhiên, chữ Liệt-San vẫn có nghĩa liên quan, vì Liệt nghĩa là ánh sáng/ sức nóng
của lửa. Và Liệt cũng là Riệt/Diệt ~ Việt!
o
Chỉ
có 1 ý ‘Sáng’ là có thể bao trùm tất cả những chữ
Văn-Lang, Lang-Sang, Dạ-Lang, Shan/Sở 楚, và
Shan 商, Liệt-san.
(các nghĩa ‘voi’ và ‘cau’ không làm được điều này)
-
Còn
đối với tên của nhà Hạ夏, nghĩa là mùa hè,
là mùa Mặt trời nóng/sáng nhất. Do đó, khả năng cao cũng là triều đại của Bách
Việt với văn minh nông nghiệp. Hình chữ Hạ夏 cổ có vẻ như có chữ Nhật日 (mặt trời) và Trung中 (chính giữa). Dĩ nhiên đây chỉ là giả thuyết,
chưa có bằng chứng rõ rệt vì thời nhà Hạ quá xa xưa. [44]
Trong
bài ‘Chữ Nôm cổ xưa và ý nghĩa của
Việt’, tác
giả Nhạn Nam Phi đã chỉ ra được các nghĩa của ‘Việt’, trong đó có các nghĩa
chính như sau: [10]
-
Việt là Rực/Nhật日, là Dương陽 – Mặt trời, là biểu tượng trung tâm của
trống đồng.
-
Việt là Dịch易 trong ‘Kinh Dịch’.
-
Việt là Viêm炎, là Lửa (và sức nóng: Viêm-Nhiệt熱).
(Nhận
xét: có khả năng Viêm-Nhiệt (thiết) = Việt)
-
Việt là Việt粵,
cũng biểu ý Cháy sáng. (Nhận xét: Việt~Riệt/Liệt烈, nghĩa là cháy mạnh)
a) Chữ tượng hình cổ của Việt
粵
Trong Lục
thư thống, có ghi lại hình chữ Việt粵 cổ như sau: [45]
Có thể
thấy rằng nửa phía trên của chữ này cũng biểu
hiện ý ‘Sáng’ chiếu qua khung cửa hoặc là một
cục lửa sáng, gần giống những chữ Quýnh囧 hay Quýnh冏 đã
trình bày ở trên.
b) Việt còn nghĩa là ‘hoạt’
(động), ‘chuyển’ động
Việt còn
có nghĩa là hoạt活 động動, tức là vận động, chuyển động.
-
Điều
này được thể hiện rõ qua chữ Việt越 bộ Tẩu,
nghĩa là bước/ đi.
-
Chữ
Việt越 còn có âm là ‘Hoạt’.
Lý do là Việt ~ Quyệt ~ Huyệt ~ Hoạt. (tiếng Triều Châu biến âm câm, thành ra
‘Oát’)
-
Chính
vì Việt và Hoạt là gần âm (có thể xem là 2 phương ngữ tương đương), nên ta có
chữ Việt鉞 và chữ Qua戈là cái búa, cái rìu (chữ Qua 戈 ngày nay có nghĩa là ‘cái mác’, nhưng thật ra
chữ Giáp cốt vẽ cái rìu cán dài). (Tương đương âm v ~ qu ~ hw còn có thể được
tìm thấy như vẽ~họa, viên-quan-hoàn, vượt~qua, viêm~hỏa, vàng-hoàng…)
-
Hoạt
động của sự sống thì gọi là Sinh生Hoạt活.
Chữ Dịch易 trong ‘Kinh Dịch’ có nghĩa là biến đổi, mà thực
ra cũng là ‘di dịch’, ‘chuyển động’…
-
Chữ
Dịch 易 âm Quan thoại đọc là Di
(Yi), cho nên phiên âm tiếng Anh của Kinh Dịch là Yi-King. [46]
-
Âm
‘di’ và ‘đi’ tương đương nhau.
Âm ‘Chuyển’ liên
quan đến ‘Việt’: Việt ~ Duyềt ~ Chuyền ~ Chuyển. (mà Chuyển ~ Choảng ~ Sáng: đi
1 vòng lại liên quan đến nghĩa Sáng!)
Do đó ta có Việt越 = Dịch = Chuyển = hoạt động, biến đổi, di dời… = Sinh Hoạt (do đó mới viết bằng bộ Tẩu, thể hiện ý bước đi).
c) Xâu chuỗi ý nghĩa của ‘Việt’
Như vậy, ta có các ý nghĩa của Việt như sau:
-
Việt
= Sáng.
-
Việt
= Mặt trời
-
Việt
= Lửa/ Nhiệt.
-
Việt
= Chuyển động/ Hoạt động/ Sinh hoạt.
Đến đây, người viết đã có thể xâu chuỗi toàn bộ ý nghĩa của Việt như sau:
-
Việt = Chuyển động, sinh
ra Nhiệt.
-
Nhiệt tăng đến một mức nào đó sẽ
phát cháy, sinh ra Lửa/ Mặt trời.
-
Lửa/ Mặt trời cháy thì phát ra Ánh sáng rực rỡ.
-
Có
mặt trời, có ánh sáng, có nhiệt độ, có chuyển động, thì mới có sự sống.
Sự sống, sinh hoạt vận động lại sinh ra Nhiệt, lặp lại vòng tuần hoàn không bao giờ dứt!
Bản thân hình vòng tròn của Mặt trời cũng chính là 1 biểu tượng của sự tuần
hoàn.
-
Trên
mặt trống đồng, trung tâm là Mặt trời soi sáng,
sự sống chuyển động xung quanh
trong một vòng lặp vô tận (hoặc ít nhất là khi vẫn còn Mặt trời). Đó chính là ý
nghĩa và minh triết của ‘Việt’!
Hoặc ta cũng có thể giải thích rằng Lửa, Ánh
Sáng, Nhiệt là 3 khía cạnh không thể tách rời của Mặt Trời
(giống khái niệm Trimurti, Ba Ngôi… trong các tôn giáo).
Mặt trời là nguồn gốc và trung tâm chuyển
động của sự sống.
Nói chung về mặt triết học, ta có nhiều ý tưởng
có thể chiêm nghiệm thêm. Nhưng đến đây thì ý nghĩa của ‘Việt’
đã được làm rõ.
(Tất cả các chữ này đều liên quan đến khái niệm
triết học Dương陽.
Về mặt lý thuyết thì Âm Dương đều quan trọng, nhưng trên thực tế sự sống thuộc
Dương mà chết chóc là Âm, nên người ta chuộng Dương mà né Âm là điều dễ hiểu.)
(phần liên hệ ý nghĩa của Việt và Hỏa giáo sẽ
được trình bày thêm ở phần phụ lục)
a) Khổng Tử họ Chử, thuộc
dòng dõi vua nhà Thương (tức là Việt)
Theo wikipedia Khổng Tử: [47]
-
Khổng Phu Tử[3] (tiếng Trung: 孔夫子)
hoặc Khổng Tử (tiếng Trung: 孔子)
là danh hiệu tôn kính của hậu thế
cho Khổng Khâu hay Khổng Khưu (chữ
Hán: 孔丘; 28
tháng 9, 551 TCN[1][2] - 11
tháng 4, 479 TCN) tự Trọng Ni (chữ
Hán: 仲尼).
Ông được suy tôn như một trong những nhà khai sáng Nho
giáo, đồng thời là giảng sư và triết
gia lỗi lạc bậc nhất cõi Á Đông[4][5][6]
-
Khổng
Khâu sinh trưởng tại ấp Trâu, thôn Xương Bình, nước Lỗ[12] (nay là huyện Khúc Phụ, tỉnh Sơn
Đông, Trung
Hoa) cuối thời Xuân
Thu. Nhiều sử ký nói rằng ông là con của một gia đình nghèo,
nhưng cụ tổ ba đời vốn cũng thuộc
dòng quý tộc đã sa sút từ khi nước Tống di cư đến nước Lỗ.
Wikipedia
Khổng Tử tiếng Việt không có nguồn dẫn cho việc Khổng Tử thuộc dòng dõi quý tộc
nước Tống, nhưng wikipedia tiếng
Anh Confucius (Khổng Tử) dẫn 4 nguồn về vấn đề này, bao gồm: [48]
-
Yao, Xinzhong
(1997). Confucianism and Christianity: A
Comparative Study of Jen and Agape. Brighton: Sussex
Academic Press. ISBN 978-1-898723-76-9.
-
Yao, Xinzhong (2000). An Introduction to Confucianism.
Cambridge: Cambridge University Press. ISBN 978-0-521-64430-3.
-
Rainey,
Lee Dian (2010). Confucius &
Confucianism: The essentials. Oxford: Wiley-Blackwell. ISBN 978-1-4051-8841-8.
Theo
wikipedia về nước Tống (thời
Xuân Thu): Sau khi cướp chính quyền nhà Thương của họ Tử/Chử 子, để
tránh bị dân chúng nổi dậy lật đổ, Chu Vũ Vương - Cơ Phát không dám giết con
cháu nhà Thương, mà để con Đế Tân (Trụ vương) là Vũ Canh ở đất Ân (tỉnh Hà Nam ngày nay) làm vua giữ
hương hỏa nhà Chu, đồng thời đặt người giám sát, quản thúc. Sau khi Vũ Vương chết,
Vũ Canh tìm cách nổi dậy nhưng thất bại bị giết, Chu công Đán lại cho anh của Đế Tân là Tử Khải làm
vua, đổi tên nước Ân thành Tống宋. [49]
-
Chắc
chắn Vũ Canh phải họ Tử/Chử子, nhưng người viết chưa tìm
ra tên thật. (Chỉ biết là chữ Canh庚 cũng là
1 trong 10 can, giống như chữ Ất của vua Thang. Hay chữ ‘Vũ Canh’ là tiếng Nôm,
nghĩa là ‘người bị vua Vũ canh chừng’ cũng nên?)
-
Chữ
Tống宋 này dường như ngày nay người
Hán cũng không hiểu nghĩa là gì, tự điển chỉ ghi là nhà Tống, nước Tống, họ Tống,
vậy thôi.
-
Chữ
này viết bằng bộ Miên宀 (mái nhà), Thuyết văn giải
nghĩa là ‘cư居’ (ở) mà đọc là Tống (tiếng
Trung đọc là Son), không liên quan chút nào tới âm Mộc/Mọc木cả. Như vậy, có lẽ đây là chữ Nôm xưa nghĩa là Sống宋
(sinh sống = ở)!
-
Như
vậy, dưới sự đè nén của nhà Chu, để tránh họa sát thân, Tử Khải không dám giữ
cái tên nhà Thương/Thang/Sáng nữa, mà đổi thành Tống/Sống, và viết là Sống宋,
tức là hàm ý với nhà Chu là chỉ muốn được sống dưới mái nhà mà thôi, không dám
làm loạn nữa. Nhưng âm Sống cũng vẫn là âm
khác của Sáng; hoặc là ý nghĩa về ‘sự sống’,
‘sức sống’ của chữ Việt như đã phân tích ở phần trước.
-
Tóm
lại: hoàng tộc nước Tống là
dòng dõi vua
nhà Thương (cũng là Văn-Lang ~ Việt
như đã phân tích). Nếu Khổng Tử đúng thuộc dòng dõi hoàng tộc nước Tống,
thì tất nhiên là dòng dõi họ Chử/Tử子 nhà Thương. (Nhắc lại: họ Chử/Tử子 nhà Thương có khả năng liên quan đến truyền
thuyết Chử
Đồng Tử,
một trong tứ bất tử của người Việt)
Trong
bài ‘Dịch thuật:
Thân thế Khổng Tử’ của tác giả Huỳnh Chương Hưng, dịch từ sách
tiếng Trung (‘Khổng Tử Thân Thế Chi Mê’ 孔子身世之谜, Tác giả: Lưu Cật 刘劼, trong
quyển ‘Trung Quốc Lịch Sử Chi Mê’ 中国历史之谜, Chủ
biên: Lí Quảng Sinh 李广生), cũng xác định Khổng Tử chính là dòng dõi họ
Chử/Tử子 nhà
Thương. Xin trích một vài đoạn: [50]
-
Khổng Tử từng nói rằng ông là
hậu duệ nhà Ân Thương.
-
Ông tổ đời thứ 6 của Khổng Tử
là Khổng Phủ Gia 孔父嘉 kế
nhiệm chức Đại Tư Mã nước Tống, con cháu đời sau lấy “Khổng” làm tính thị.
Và bài ‘Dịch thuật:
Tính và danh của Khổng Tử’ (nguồn: ‘Tế Thuyết Khổng Tử Đích Tính Hoà
Danh’ 细说孔子的姓和名, trong
quyển ‘Trung Quốc Nhân Danh Đích Cố Sự’ 中国人名的故事, Tác giả: Trương Tráng Niên 张壮年, Trương
Dĩnh Chấn 张颖震
có viết như sau: [51]
-
Hậu nhân của Vi Tử Khải có một
người tên Khổng Phủ Gia 孔父嘉, từng
giữ chức Đại tư mã ở nước Tống, cháu ông là Phòng Thúc 防叔 nhân
vì tránh hoạ đã chạy đến nước Lỗ. Cháu của Phòng Thúc là Thúc Lương Hột 叔梁纥 chính
là phụ thân của Khổng Tử.
-
Thời cổ, có tập tục lấy tên tự
của tổ tiên làm thị 氏. Khổng Tử theo cách này, lấy
tự “Khổng Phủ” 孔父 của
tổ tiên Khổng Phủ Gia làm thị, đơn tự là “Khổng”. Sau thời Tiên Tần, tính và tự
hợp làm một, thị cũng là tính, cho nên “Khổng” cũng trở thành tính của Khổng Tử.
Nói chính xác, Khổng Tử phải tính “Tử”, “Khổng” là thị.
-
(Nhận
xét: điều này tương tự Khương Tử Nha tên thật là Khương姜Thượng尚, trong
đó Khương姜 là họ tổ tiên (tính), còn họ
thị tộc là Lã呂, nên còn gọi là Lã Vọng.
[52])
Xét về
chữ Khổng 孔, cũng
bao gồm chữ Chử/Tử子 (trái) và một nét
móc乚(phải).
-
Chữ
Khổng孔 này gần như đồng âm đồng
nghĩa với chữ Khổng空 viết bằng chữ Công工. Âm Quan Thoại vẫn đọc chữ này là ‘Công’ (cho
nên Latin hóa ‘Khổng Phu Tử’ là Con-fu-cius)
-
Mà
ta lại có chữ Công nữa viết là Công公 , là tước
cao nhất trong năm tước (Công, Hầu, Bá, Tử, Nam) dành cho hoàng tộc. Có thể họ
Khổng 孔 là cách chơi chữ: vị Công公 (乚) họ Tử子.
-
Hoặc
như người viết đã trình bày, chữ Công工 còn có
âm Nôm là Dòng (Giòng/Sông ~ Giang江). Cho
nên cũng có thể chữ Khổng孔 chiết
tự nghĩa Nôm là ‘Dòng乚 (họ) Tử子’).
-
(cả
chữ Tống宋 cũng có khả năng là những ý
này)
-
Còn
về nét móc乚 bên phải chữ Khổng là gì,
thì tra cứu thấy có ít nhất 3 thuyết, nên không biết đâu là đúng. Theo Thuyết văn chữ Khổng孔, đó là chữ cổ Yết 𠃉 (cũng
là Ất鳦, tức chim Yến), là loài chim
‘huyền điểu’ (dòng họ Chử/Tử子 cũng có truyền thuyết sinh
ra từ trứng chim huyền điểu, nên gọi là Chử/Tử子) [53]. Theo wiktionary chữ Khổng, thì đó lại là nét phẩy Phiệt丿[54. Còn theo Tự
điển từ nguyên online chữ Khổng, thì đó lại là chữ Ẩn乚, nhưng giải thích đó là tượng hình vú người mẹ
(chữ Tử/Tí子 có 1 nghĩa là đứa trẻ). [55]
Nhưng
nói chung những suy đoán về chữ Khổng孔 chỉ là suy đoán không
quan trọng. Quan trọng là:
-
Nhiều sách vở đã chỉ ra: Khổng孔Tử子 có tổ tiên họ Chử/Tử子, là dòng dõi hoàng tộc nhà
Thương (Văn-Lang ~ Việt).
-
Mà
nhà Thương
thuộc Văn-Lang, nên thuộc Bách Việt, không phải Hán tộc.
-
Do đó: Khổng Tử
thuộc dòng dõi Bách Việt.
(Bàn
thêm:
-
Trong
sách Luận Ngữ, thiên 7, có ghi lại 1 câu
nói của Khổng Tử, đó là ‘Thuật述 nhi而 bất不 tác作’,
được giải nghĩa là Khổng Tử nói rằng mình chỉ thuật lại lời của người xưa chứ
không sáng tác, thêm thắt. [56]
-
Trong
Ngũ Kinh mà Khổng Tử san định, có Kinh Dịch đến nay đã rõ nghĩa Dịch là biến đổi, di chuyển,
mà cũng là Việt. Bên cạnh đó cũng có 1 quyển gọi là Kinh Thư, tên đầy đủ vốn là Thượng尚 Thư書, ghi
chép các chuyện từ thời Ngu Thuấn, Hạ, Thương, Chu. [57]
-
Có
khả năng Thượng Thư là sách vở truyền lại từ thời nhà Thương, bổ sung thêm vào
thời nhà Chu, mà Khổng Tử là dòng dõi vua nhà Thương, nên đọc hiểu được chữ Nôm
thời Thương và viết lại? Theo wikipedia về Kinh Thư, Sử Ký (Tư Mã Thiên) ghi rằng
sau khi Tần Thủy Hoàng đốt sách chôn nho, Hán Văn Đế cho người tìm người hiểu
được Thượng Thư, thì chỉ có 1 người là Phục Sinh hiểu được [57]. Điều này chứng
tỏ tới thời Hán thì sự xâm nhập của người Hồ đã ảnh hưởng khá lớn đến ngôn ngữ
vùng Trung Nguyên.
-
Có
lẽ vì Chu đã diệt Thương, không thể gọi là Thương Thư, nên gọi né đi là Thượng
Thư chăng? Chữ Thượng 尚 nhìn giống như ghép từ nửa dưới chữ Thương商 sửa lại đôi chút vậy. Và vì Khổng Tử viết lại
sách truyền từ nhà Thương, nên mới nói là ‘thuật nhi bất tác’ chăng?
-
Tất
nhiên đây chỉ là suy đoán để bàn thêm, chưa có bằng chứng cụ thể.)
b) Nước Lỗ là nước Lã/ Nã/
Nác, là Lạc trong Lạc Việt
Trong một bài viết trước, người viết đã trình
bày giả thuyết rằng tên nước Lỗ魯 (nơi
sinh của Khổng Tử) có nghĩa là ‘trâu’. Giả thuyết này đến từ nhiều yếu tố,
trong đó có 1 giả thuyết rằng ‘chữ Ngư魚 (cá) và Ngưu牛 (trâu) đã bị dùng lẫn lộn’ từ xưa.
Tuy nhiên, đến khi viết bài này và kiểm tra lại
Giáp cốt văn và Kim văn chữ Lỗ魯, người viết mới biết rằng giả thuyết đó là
sai.
Chữ Lỗ魯 giáp cốt
văn và kim văn đúng là vẽ hình con cá ở trên (bên dưới chữ Khẩu口 hoặc chữ
Nhật日, 2 chữ này
xưa có thể được dùng như nhau, biểu ý là ‘sáng’, như đã trình bày ở phía trên):
[58]
Những suy luận trong bài viết cũ về chữ Lỗ魯 dù có
lý cỡ nào, nhưng nếu không được bằng chứng cụ thể xác nhận, thì cũng không có
giá trị. Trong trường hợp này, chữ Giáp cốt và Kim văn cho thấy chữ Lỗ魯 vẽ hình
cá, thì chữ Ngư魚
đúng là cá, và Lỗ魯
không phải ‘trâu’ như đã viết!
Vì trong chữ Lỗ魯 viết chữ Cá魚, nên có lẽ Lỗ lại là Lã/ Lạc (trong Lạc Việt).
Có rất nhiều yếu tố ủng hộ giả thuyết này:
-
Ngày
nay người Việt vẫn có cách nói ‘lỗ lã’. Đây là trường hợp a~ô, như nam~nôm,
hà~hồ…
-
Con
cá là biểu tượng của nước. (trong Chiêm tinh phương Tây, cung Song Ngư Pisces – tượng 2 con cá, là một
cung loại nước – water). [59]
-
Chữ
Nôm có trước, do đó chữ Ngư魚 ngày xưa phải đọc là Cá魚. Cả âm ‘Cá’ và ‘Ngư’ đều liên quan đến nước:
o
‘Nước’ khó đọc đã biến thành ‘Nứ’ rồi thành ‘Ngư’ (vì
Nôm có trước). Thuyết văn giải nghĩa chữ Ngư魚 là Thủy水 Trùng蟲, chính
là nghĩa ‘con nước’. [60]
o
Chữ
Lạc洛 viết bằng chữ Các各.
Điều đó cho thấy mối liên hệ giữa Cá ~ Các ~ Lạc (mà
Lạc ~ Nác ~
Nước như đã trình bày trong bài
trước ‘Thử giải nghĩa ‘con Rồng cháu Tiên’’ [61]). (cũng vì vậy mà tác giả Nhạn
Nam Phi cho rằng ngày nay chữ ‘sóng cả’ có nghĩa là ‘sóng lớn’, nhưng xưa thì chỉ là cách dùng ghép, vì cả/cá ~ lạc ~
nước)
o
Wiktionary chữ Lạc各 cho biết Trịnh Trương Thượng Phương phục
nguyên cổ âm của Lạc là /*klaːɡ/, tức là gần giống K-lạc. Điều này này khá hợp
lý với mối liên hệ mà người viết đã chỉ ra. [62]
o
(Theo
tác giả Nhạn Nam Phi, chữ Các各 còn có âm Gác各 (Quan Thoại đọc là Ge. Chữ Các格 bộ
mộc cũng là ‘gốc’
(cây). Do đó mới có cách dùng từ ‘gốc gác’. Và sau này âm Hán Việt
trở thành Quốc國, Quan Thoại đọc là Guó (~gốc). Cho nên ‘quốc’ nghĩa
cổ chính là ‘gốc’
(gác) mà lại cũng là ‘nước’. Đó là về âm và nghĩa, còn về cách viết
chữ Quốc國 thì lại viết kiểu hình
thanh, dùng âm chữ Hoặc或 để đọc là Quắc, nếu như vậy
thì sau mới thành Quấc rồi thành Quốc. (nhiều người cho rằng là chữ hội ý,
nhưng người viết cho rằng hình thanh mới đúng))
-
Khương Tử Nha còn gọi là Lã Vọng, vì thị tộc ở đất Lã呂 [63]. Ngày nay bính âm chữ Lỗ魯 là Lu, còn Lã呂 là Lü (nên cũng có âm là Lữ: Lữ Bố/ Lã Bố).
o
Đất
Lã xưa trở thành nước Lã呂, có thủ đô nằm ngay Nam Dương (từng gọi là Uyển
Thành), thuộc tỉnh Hà Nam. (Tỉnh Hà Nam là nơi phát tích của nhà Thương) [64]
o
Nam
Dương giáp với Lạc Dương (có sông Lạc, liên quan Lạc Việt như đã trình bày ở
bài trước) ở phía Bắc và giáp với Bình Đính Sơn phía Tây Bắc. Mà Bình Đính Sơn
có Lỗ Sơn, là thủ đô đầu tiên của nước
Lỗ. [65]
o
Như
vậy: 2 nước
Lỗ魯, Lã呂 này nằm kế bên nhau. (2 nước này tồn tại cùng lúc vào đầu thời
Chu)
o
Còn
về nghĩa, ngày nay người Việt vẫn dùng từ ‘nước lã’ (nước chưa nấu sôi). Đó là vì Lã ~ lạc
~ nác ~ nước. Lã và nước là đồng nghĩa và cùng gốc âm.
o
Như
vậy, Lỗ魯 liên
quan Lã呂
và (sông) Lạc洛
mật thiết cả về âm lẫn nghĩa lẫn vị trí địa lý.
-
Chữ
Lỗ魯
ngày nay bính âm là ‘Lu’, còn Lạc洛 là ‘Luo’ (vì a~ô nên Lạc~Lộc~Luo),
tức là rất gần nhau.
-
Trong
chữ Lỗ魯
còn có chữ Nhật日 – Mặt trời, ở nửa dưới, rõ
ràng là dấu ấn của Việt.
-
Như
vậy, với tất cả những lý do trên, người viết cho rằng nước Lỗ魯 liên quan đến chữ Lạc của Lạc Việt. (Lỗ ~ Lã ~ Lạc/Các/Cá ~
Nác/Nước ~ Ngư)
o
Ghi
chú rằng vua Lỗ là họ hàng của nhà Chu, cho nên chưa chắc đã là Việt. Nhưng đa
số người dân khu vực này chính là người Lạc Việt thời nhà Thương (Văn-Lang).
o
Sau
khi nhà Thương bị diệt, nhà Chu cai trị Trung Nguyên một thời
gian quá dài (trừ nước Sở), đến cả ngàn năm (tám trăm năm theo chính sử), khiến
người dân vùng này quên luôn gốc Việt, mà cho rằng mình khác với người Việt
phương Nam. Đây là điều cần được lật lại và làm rõ. [66]
o
Khác với giả thuyết Lỗ魯 nghĩa là ‘trâu’, giả thuyết Lỗ魯 là ‘Lạc’ có chữ giáp cốt và kim
văn làm luận cứ (có hình ‘cá’, liên quan đến Lạc/nước cả về âm lẫn tính biểu tượng).
-
Như
vậy: nước Lỗ魯 có núi Thái
Sơn, gần sông Lạc chính là một trong những nơi phát tích của người Việt. Khổng Tử là người Việt, sống trên đất của
người Việt là hợp lý.
o
Câu
ca dao ‘công
cha như núi Thái Sơn, nghĩa mẹ như nước Trong Nguồn’ chảy ra đã xác
định một trong những vùng đất mà người Việt cổ từng sinh sống: đó là đồng bằng sông
Hoàng Hà, như đã phân tích trong bài ‘Thử giải nghĩa ‘con Rồng cháu
Tiên’’. [67]
o
Còn
câu ‘gió Động
Đình mẹ ru con ngủ’, thì cũng là một vùng đất khác mà người Việt từng
sống: vùng Động
Đình Hồ - Đụn Tiên, đồng bằng sông Trường Giang. Điều này thì ít
tranh cãi, vì có ghi chép trong ‘Đại Việt sử ký toàn thư’. [68] (Tham khảo thêm bài ‘Đụn Tiên: Động Đình Hồ’ của tác giả Nhạn Nam Phi.
[69])
a) Về một nghiên cứu ban đầu
về di truyền tại khu mộ Ân Khư nhà Thương
Sau
khi viết bài này, người viết được gửi cho 1 tài liệu về nghiên cứu di truyền tại
khu mộ Ân Khư nhà Thương (với mục đích phản biện bài viết).
Đó là ‘Preliminary
Research on Hereditary Features of Yinxu Population’ (tạm dịch:
nghiên cứu ban đầu về hình thái di truyền của dân cư Ân Khư), năm 2013, của tác
giả Wen Zhen (Tăng曾 Văn雯), tại đường link https://www.academia.edu/5297877/2013_AAPA_poster-_Preliminary_Research_on_Hereditary_Features_of_Yinxu_Population
Theo
đường link trên thì chỉ có 1 trang kết quả duy nhất, người viết không tìm được
tài liệu dài và chi tiết hơn.
Kết
luận của tài liệu trên, đó là dân cư Ân Khư có liên quan di truyền với người
Hoa Bắc (cho nên khá là khác với nhóm Hoa Nam) [70]. Căn cứ trên kết luận đó, vị
độc giả đó cho rằng bài viết của người viết là sai, và nhà Thương không phải Việt.
Người
viết xin chỉ ra các vấn đề của tài liệu trên, và cái sai trong sự kết luận vội
vàng của vị độc giả trên:
-
Thứ
nhất là về độ khả tín của tài liệu:
o
Ngay
trong phần mở đầu, tài liệu trên cho biết ‘Cho đến nay,
không có nghiên cứu di truyền nào được thực hiện trên các hài cốt tại Ân Khư’.
[70]
o
Tại
sao lại như vậy? Có thể có nhiều lý do, ví dụ như vấn đề bảo quản di tích, hoặc
cũng có thể là lý do chính trị… Nhưng điều có thể thấy là không dễ dàng để tiến
hành nghiên cứu di truyền tại nơi này. (khu mộ Ân Khư được tìm thấy từ năm 1899, tức là đã hơn 100
năm chứ không phải mới phát hiện) [71]
o
Tài
liệu trên được thực hiện bởi Jilin University, tức là Đại học Cát Lâm, nằm
ở tỉnh Cát Lâm, gần với cực Bắc của Trung Quốc (giáp Triều Tiên). Tại sao lại
là Cát Lâm mà không có trường nào gần Hà Nam (Ân Khư) hơn? Và tác giả Tăng Văn sinh năm 1985, vào thời điểm công bố tài liệu
này là năm 2013, mới là một Thạc sĩ, nhưng là ngành Khảo cổ, chứ cũng không phải
Di truyền học. [72]
o
Khu
mộ Ân Khư là một di tích rất quan trọng của Trung Quốc, và như tài liệu đó đã tự
thể hiện: rất khó để tiếp cận và nghiên cứu di truyền ở đó. Vậy thì tại sao
tác giả của nghiên cứu di truyền đầu tiên ở Ân Khư lại là 1 nữ nghiên cứu sinh
tuổi còn trẻ (từ Cát Lâm xa xôi), chưa có bề dày nghiên cứu, trong khi Trung Quốc
có tới hàng ngàn giáo sư, tiến sĩ thuộc loại cây đa, cây đề chứ đâu phải ít?
o
Và
yếu tố cuối cùng về độ khả tín: những mẫu hài cốt Ân Khư có được cung cấp cho
các nhà nghiên cứu quốc tế để tiếp cận và tiến hành phân tích di truyền độc lập
không? Người viết nghĩ là không. Như vậy, làm sao để kiểm chứng độ khả tín của tài liệu trên? - Gần
như là không thể, ở thời điểm hiện tại.
o
Xin
độc giả lưu ý rằng ở phần trên, người viết chỉ mới nêu ra những vấn đề bất thường,
chứ không chỉ
vì nghi ngờ và suy diễn mà phủ nhận toàn bộ tài liệu nghiên cứu
trên. (Người viết cho rằng độc giả có thể tự nhận định về vấn đề này.)
-
Thứ
hai là về một số vấn đề trong chính tài liệu này:
o
Trong
tài liệu ghi rằng nghiên cứu được thực hiện trên 37 mẫu, được lấy từ khu mộ
Liujiazhuang. (lối viết không rõ ràng, có thể hiểu rằng Liujiazhuang là một phần
của khu vực Ân Khư, nhưng không có thông tin cụ thể hơn) Nguyên văn như sau: ‘The 37 individuals sampled in this study were recovered
from Liujiazhuang cemetery (Figure 1).’ [70]
o
Vấn
đề đầu tiên có thể thấy là: con số 37 mẫu là quá nhỏ, và chỉ lấy từ 1 khu
mộ Liujiazhuang duy nhất tại vùng Ân Khư. Vùng Ân Khư có bao nhiêu khu mộ như vậy,
Liujiazhuang có thể đại diện cho toàn bộ người dân nhà Thương rộng lớn không?
o
Và
ngay tại câu cầu tiên này cũng có vấn đề, bởi vì Figure 1 (Hình 1) trong tài
liệu lại là hình minh họa về vị trí địa lý của các nhóm người cổ (‘Geographic locaton of ancient groups’), rải
rác ở vùng Hoa Bắc và cả Nội Mông. Nhìn cái hình 1 trong tài liệu thì thấy là
thật sự không liên quan gì Liujiazhuang cả! Thật khó hiểu một nghiên cứu quan
trọng lại có lỗi sai cơ bản như vậy.
o
Lại
có 1 câu như sau: ‘the tomb owners were probably citizens of
the city’ [70] (tạm dịch: những người trong các ngôi mộ này CÓ KHẢ NĂNG
là người của thành phố này). Như vậy là: họ nghiên cứu di truyền học của người Ân Khư, mà không chắc
chắn đó có phải người Ân Khư không!
o
Trong
bài nghiên cứu ‘The Comparison between Human
Sacrifice in Egypt and that in China’ đăng trên ResearchGate, tác giả Bohai Xu có
viết như sau: “Soldiers
captured by the Chinese during ancient wars may have been kept as slaves and
tortured before being ritually sacrificed. That's according to a study of the
chemical composition of the remains of people found at a burial ground at Yinxu(殷墟), belonging to
the Shang dynasty. The findings suggest that the victims killed were not locals
but had been put to work in the area for a number of years, existing on a
meagre diet. Oracle bone inscriptions from Yinxu had suggested that many
sacrificial victims were captives from wars, and this is the direct
archaeological evidence to support this.” [73] Tạm dịch: “Những người lính bị bắt giữ bởi
người Trung Quốc trong các cuộc chiến tranh cổ đại có thể đã bị bắt làm tù binh
và tra tấn trước khi bị hiến tế. Điều này là theo một nghiên cứu về cấu tạo hóa
học của các hài cốt người tìm thấy tại một nơi chôn cất ở Ân Khư, thuộc nhà
Thương. Những phát hiện gợi ý rằng các nạn nhân đã bị giết không phải người bản
địa, nhưng đã bị bắt làm việc trong khu vực trong nhiều năm, với khẩu phần
nghèo nàn. Giáp cốt văn từ Ân Khu gợi ý rằng nhiều nạn nhân bị hiến tế là những
tù binh chiến tranh, và đây là bằng chứng khảo cổ trực tiếp xác nhận điều này”.
Như vậy, những
nghiên cứu DNA tại Liujiazhang là của người bản xứ khu Ân Khư, hay là tù binh
chiến tranh từ tới khác bị bắt tới?
o
Theo
wikipedia tiếng Anh về Ân Khư (Yinxu), thì khu Ân Khư rộng đến 30
km2, trên 80 vị trí xây dựng, nhiều ngôi mộ, trong đó ngôi mộ hoàng tộc được bảo
toàn tốt nhất là của Phụ Hảo (một người vợ của vua Vũ Đinh). [74] Vậy tại sao
không xét nghiệm DNA tại đây để xác định hoàng tộc nhà Thương, mà lại là
Liujiazhang và không biết liệu đó có phải người bản xứ ở Ân Khư không? Tài liệu
trên hoàn toàn không có lời giải thích nào cho việc này.
o
Hạn
chế cuối cùng của tài liệu này đó là chỉ có nội dung về mtDNA, mà không có nội dung về Y-DNA.
Trong khi về mặt di truyền, mtDNA và Y-DNA có thể cho ra kết quả khác nhau rất
xa (sẽ nói thêm ở phần tiếp theo). Phần cuối của tài liệu nói rằng nghiên cứu về
Y-DNA của các mẫu trên ‘đang được thực
hiện’ và ‘sẽ có thông tin
sớm’ [70]. Nhưng năm 2013 đến nay đã là 6-7 năm, nhưng người viết
tìm kiếm vẫn không thấy công bố kết quả nghiên cứu về Y-DNA của các mẫu này. Có
lý do nào trong việc này chăng?
o
Như
vậy, với những vấn đề căn bản đã chỉ ra: nghiên cứu này không thể giúp đưa ra được 1 kết luận nào
về di truyền của người thời nhà Thương!
-
Thứ
ba là sai lầm trong suy diễn của vị độc giả về vấn đề di truyền:
o
Vị
độc giả gửi cho người viết tài liệu cho rằng 37 mẫu là không nhỏ (!), và còn
nói rằng mtDNA
cũng đã nói lên được nhiều điều (hàm ý là như vậy đã đủ để kết luận
rằng người nhà Thương không có quan hệ di truyền với Bách Việt).
o
Lý
luận như vậy sai về cơ bản của di truyền học! Người viết xin trích một đoạn từ
bài nghiên cứu ‘A spatial analysis of genetic
structure of human populations in China reveals distinct difference between
maternal and paternal lineages’ năm 2008 đăng trên European Journal of Human
Genetics, để chứng minh điều này: ‘Our
results highlight a distinct difference between spatial genetic structures of
maternal and paternal lineages. A substantial genetic differentiation between
northern and southern populations is the characteristic of maternal structure,
with a significant uninterrupted genetic boundary extending approximately along
the Huai River and Qin Mountains north to Yangtze River. On the paternal side,
however, no obvious genetic differentiation between northern and southern
populations is revealed.’ [75]
o
Tạm
dịch: Kết quả của chúng tôi cho thấy một khác biệt rõ rệt giữa cấu trúc di truyền của dòng cha và
dòng mẹ. Một sự khác biệt đáng kể về di truyền giữa nhóm người
miền bắc và miền nam là đặc điểm của cấu trúc dòng mẹ, với một biên giới di truyền
không đứt quãng trải dọc sông Hoài và Tần Lĩnh về phía Trường Giang. Tuy nhiên,
về phía dòng
cha, không thấy có khác biệt di truyền đáng kể giữa nhóm miền nam và
miền bắc nào.
o
Vấn
đề nằm ở chỗ mtDNA di truyền theo dòng mẹ, còn Y-DNA thì theo dòng cha. Nghiên
cứu di truyền người Trung Quốc cho thấy người Hoa Bắc và Hoa Nam khác về dòng mẹ
(mtDNA), nhưng dòng cha (Y-DNA) lại không khác nhiều. Như vậy, cứ cho rằng người
nhà Thương không có liên quan về mtDNA với Bách Việt (chưa nói đến những vấn đề
còn tồn tại của tài liệu trên như đã trình bày), thì đã chắc gì cũng không có liên quan về
Y-DNA, vì đây là 2 dòng di truyền khác nhau?
o
Và
như vậy, ngay cả trường hợp nghiên cứu trên là đúng (trong khi ở phần trên đã
chỉ ra khá nhiều vấn đề lớn của bài viết), thì cũng chưa phủ nhận được sự liên quan
về di truyền giữa nhà Thương và Bách Việt.
Trong phần tiếp theo,
người viết sẽ tiếp tục trình bày và cho thấy rằng những nghiên cứu về Y-DNA được công bố cho
đến thời điểm hiện tại ủng hộ giả thuyết nhà Thương là triều đại của người Việt.
b) Nhận định (sơ bộ) về gien
di truyền của Bách Việt và người Hoa
Người
viết xin có 1 số điểm lưu ý như sau:
-
Con
người tiến hóa hàng triệu năm, bất cứ một ai cũng từ 1 cái gốc ban đầu mà ra.
Do đó, các khái niệm chủng tộc, dân tộc chỉ mang tính tương đối, tùy theo tiêu chí và cách phân loại.
-
Không
có dân tộc nào sang, không có dân tộc nào hèn. Không có 1 dân tộc nào là không
trải qua thời kỳ hoang dã, hoang sơ cả. Bản chất một con người thể hiện qua
hành động của họ, chứ họ thuộc dân tộc hay dòng máu nào không quan trọng.
-
Có
thể nói rằng: hầu hết các dân tộc đều mang nhiều dòng máu (mã gien), hầu hết
các quốc gia đều có nhiều dân tộc, hầu hết các dân tộc đều sống trên nhiều quốc
gia, vùng lãnh thổ… Do đó, cần phải phân biệt rõ các khái niệm này và không sa
vào chủ nghĩa dân tộc hay chủ nghĩa vùng miền.
-
Ngày
nay, không
có 1 dân tộc nào gọi là ‘thuần chủng’, bất cứ 1 dân tộc nào cũng
mang nhiều mã gien khác nhau. Do đó, nói là người này thuộc tộc này hay tộc kia
hay ‘hòa huyết’, ‘lai’, ‘mang 2 dòng máu’… đều chỉ là nói ra vấn đề về di truyền
học, chứ không có hàm ý miệt thị trong đó.
-
Do
đó, toàn bộ mục 7 này chỉ nhằm cố gắng đưa ra một hướng phân tích nguồn gốc các
dân tộc theo kiến thức về di truyền của khoa học hiện đại, chứ không có ý định
gây chia rẽ hay kích động tinh thần dân tộc. (Việc phân loại này cũng giống như
phân loại trái cây mà thôi.)
Với
tinh thần trên, người viết xin đi vào giả thuyết về di truyền học đối với Bách
Việt và người Hoa ngày nay: (lưu ý rằng nội dung này chỉ là tương đối, vì vấn đề
di truyền rất phức tạp)
-
Theo
người viết, Bách Việt có thể xem là có liên quan mật thiết với nhóm haplogroup O (Y-DNA). [76]
Bản đồ phân bố của haplogroup
O. Nguồn: https://en.wikipedia.org/wiki/Haplogroup_O-M175.
o
Người
Hồ vốn sống ở vùng Siberia phía Bắc thuộc haplogroup N (Y-DNA). Đây là một mã gien dòng cha
cũng thường gặp ở người Mông Cổ. [77]
Bản đồ phân bố của haplogroup
N. Nguồn: https://en.wikipedia.org/wiki/Haplogroup_N-M231.
o
Cả
2 nhóm N và O cùng thuộc gốc haplogroup NO, xuất phát từ vùng Lưỡng Hà. Sơ đồ di chuyển của
các nhóm như hình dưới. [78] Với hình này, có thể thấy nhóm O2 có ở vùng Hoa Bắc,
và O1 ở Hoa Nam, Việt Nam và toàn bộ vùng Nam Á. Như vậy, nếu cho rằng Bách Việt
là đại chủng có haplogroup O, thì Bách Việt có mặt ở toàn bộ Trung Quốc ngày
nay, chứ không riêng gì vùng Hoa Nam cả.
Bản đồ di cư của
haplogroup N và O. Nguồn: https://en.wikipedia.org/wiki/Haplogroup_NO.
o
Tuy
nhiên, cũng có 1 nghiên cứu khác cho rằng nhóm N từ phương Nam di cư lên
Siberia:
Một
giả thuyết về hướng di cư của haplogroup N. Nguồn: https://en.wikipedia.org/wiki/Haplogroup_N-M231.
-
Bên
cạnh đó, cũng có một sự di chuyển tương tự của nhóm haplogroup C (C-M130). Haplogroup C từ vùng Lưỡng
Hà chia làm 2 nhánh: [79]
o
Nhánh C1 (C-F3393) di chuyển theo đường phương
Nam, qua Ấn Độ, đến Đông Nam Á và các đảo Nam Thái Bình Dương. [79]
o
Nhánh C2 (C-M217) di chuyển theo đường phương
Bắc, đến Siberia, rồi từ đó lan qua phương Tây và lấn xuống phương Nam. Haplogroup
C2 chính là một trong những mã gien chủ yếu của người Mông Cổ ngày nay. Tương tự
mã gien N, càng về phương Nam thì tỉ lệ của C2 càng thấp. [80]
Một giả thuyết về hướng
di cư của haplogroup C. Nguồn: https://en.wikipedia.org/wiki/Haplogroup_C-M130. [79]
Một
giả thuyết khác về hướng di chuyển của nhóm C, trong đó người phương Bắc là từ
phương Nam di chuyển lên. Nguồn: http://patagoniamonsters.blogspot.com/2014/07/nry-haplogroup-c-part-2-eurasia-and.html [81]
Bản đồ phân bố nhóm
C2 hiện tại. Nguồn: https://en.wikipedia.org/wiki/Haplogroup_C-M217. [80]
-
Như
vậy, nếu kết hợp những thông tin trên lại thì ta có 2 nhóm lớn:
o
Nhóm
Bách Việt là nhánh phương Nam (bao gồm toàn bộ vùng Trung
Nguyên trở xuống Đông Nam Á và các đảo Nam Thái Bình Dương), với haplogroup O và C1. Có lẽ nên xem họ là đại diện của văn hóa
nông nghiệp phương Nam.
o
Nhóm
người Hồ/
Mông Cổ là nhánh phương Bắc (từ Mông Cổ đến Siberia), với haplogroup
N
và C2.
Có lẽ nên xem họ là đại diện của văn hóa du mục phương Bắc. (Cả 2 nhóm N và C2
đều có giả thuyết cho rằng họ từ phương Nam di cư lên miền Bắc.)
o
Người
viết xin tạm gọi nhóm C1 và O1 là ‘Bách Việt phương Nam’, còn nhóm O2 là ‘Bách Việt
Trung Nguyên’. Trong những lần người Hồ (nhóm N và C2, đều ở phương Bắc) xâm
lấn Trung Nguyên, một bộ phận của ‘Bách Việt Trung Nguyên’ đã di chuyển xuống
phương Nam, hòa huyết với người ‘Bách Việt phương Nam’ để trở thành các quốc
gia ngày nay là Việt Nam, Lào, Thái Lan… Và dĩ nhiên là không có chuyện di cư toàn
bộ, cho nên một bộ phận (có lẽ là lớn hơn) của ‘Bách Việt Trung Nguyên’ vẫn ở lại, sống
chung với người phương Bắc thì trở thành người Hán ngày nay.
o
(về sự giao thoa giữa Bách Việt
với người Hồ phương Bắc, xem thêm ở phần riêng 7.d) bên dưới)
o
Như
vậy, người Việt hay Trung Quốc thực sự mà nói là có cùng tổ tiên Bách Việt cổ đại,
chứ không phải 2 nòi giống khác nhau 100%. Và ta thấy trong trường hợp của từng
dân tộc ngày nay đều là sự hợp chủng của nhóm phương Nam và nhóm phương Bắc. Chỉ
khác là Việt = O +C1, còn người Hoa = N +C2 +O. Người Hoa Bắc thì có tỉ lệ nhóm
N và C2 cao hơn người Hoa Nam. (xin lưu ý là chỉ mang tính tương đối và khái
quát).
o
Xin
lưu ý rằng toàn
bộ loài người đều cùng 1 gốc mà ra, sự phân chia về nhân chủng chỉ
là tương đối, tùy theo tiêu chí đang xét. Nếu xét trong nhóm lớn là C (gồm cả
C1 và C2) hay nhóm NO (gồm cả N và O), thì Việt hay Tàu cũng cùng nhóm lớn đó,
cũng là người châu Á cả!
-
Tác
giả Bình Nguyên Lộc có sách ‘Nguồn
gốc MÃ LAI của dân tộc VIỆT NAM’, cho rằng người Việt Nam cũng
như Bách Việt bao gồm vùng Hoa Nam là chủng tộc Cổ Mã Lai, tức là Indonésien
hay Indonesian. [82] (ngày nay thường gọi là Proto-Malay)
o
Xin
lưu ý rằng Cổ Mã Lai hay Proto-Malay là 1 cái tên gọi chung cho 1 chủng tộc, chứ
không phải để chỉ xuất xứ của dân tộc này, xuất xứ là một vấn đề cần phải
nghiên cứu thêm. Chủng tộc này đã có từ hơn 10.000 năm trước, nên vượt xa lịch
sử Bách Việt và vùng Trung Nguyên hơn 4.000 năm theo kiến thức hiện tại.
o
Sách
này đáng chú ý, vì vượt ra được 2 xu hướng thường thấy khi nói về nguồn gốc Việt
tộc. Hoặc cho rằng ta là người Trung Quốc di cư đến Việt Nam, hoặc phủ nhận
hoàn toàn ‘yếu tố Trung Quốc’ và cho rằng người Việt vốn tự có sẵn ở đồng bằng
Bắc Bộ từ xưa đến giờ!
o
Theo
wikipedia về Y-DNA
haplogroups của một số nhóm người ở Đông và Nam Á, thì người Mã Lai và
Indonesia có tỉ lệ gien nhóm O1 và O2 lớn, và một ít nhóm C. [83] Điều này phù
hợp với giả thuyết Bách Việt là haplogroup O (gồm cả O1 lẫn O2) mà người viết
đã trình bày ở trên.
o
Điều
đáng chú ý
chính là mã gien O2 (mã gien xuất
hiện nhiều ở vùng Hoa Bắc) ở người Mã Lai và Indonesia chiếm tỉ lệ rất cao,
ngang ngửa nhóm O1. Nhưng lịch sử Trung Nguyên ghi chép lại thì không thấy có
những đợt di cư lớn như vậy từ vùng Hoa Bắc (hay kể cả Hoa Nam/ Đông Nam Á) đến
Mã Lai hay Indonesia. Như vậy, giả thuyết hợp lý chính là nhóm O2 đã có mặt ở
vùng Đông Nam Á từ trước các thời Hạ Thương Chu, và cũng có nghĩa là người Hoa
Bắc lẫn Hoa Nam, Việt Nam và Mã Lai và Indonesia… đều có 1 nguồn gốc chung! Và
như vậy, nguồn gốc chung đó có thể là bán đảo Đông Dương vì là vùng trung tâm
toàn khu vực (lưu ý: chưa thể khẳng định).
o
Như
vậy, có vẻ như thuyết
‘nguồn gốc Mã Lai’ của tác giả Bình Nguyên Lộc được các bằng chứng về DNA đến
thời điểm hiện tại ủng hộ.
o
Và
như vậy, rõ ràng nền văn hóa Trung Nguyên nên được xếp vào nhóm Bách Việt,
nhánh Hoa Bắc, thay vì xem là một nền văn minh chủng một chủng tộc riêng như xu
hướng hiện nay. (ảnh hưởng của vùng Mông Cổ và Siberia chỉ xuất hiện từ thời
Chu, Tần… trở đi)
Điều
người viết vừa trình bày chỉ là Y-DNA của 2 haplogroup NO và C, mới chỉ là một
phần rất nhỏ về di truyền học của con người vùng Đông Á. Những sự
khác biệt giữa cư dân Nam Á/ Trung Quốc và Hoa Nam/ Hoa Bắc còn đến từ nhiều yếu
tố khác. Nhưng chỉ
một chi tiết nhỏ về haplogroup O cũng đủ cho thấy có 1 sự chia sẻ chung về mã
gien giữa người Việt Nam, Nam Á, Đông Á và Trung Quốc ở một mức độ nhất định. Đây
là sự thật mà các nghiên cứu về di truyền đã chứng tỏ. Người Việt hay người
Trung Quốc đều không
nên vì mâu thuẫn dân tộc mà phủ nhận hay bóp méo vấn đề.
Việc
sử dụng các kết quả nghiên cứu di truyền là cần thiết, vì đó là một trong những
bằng chứng vững chắc nhất cho lịch sử. Tuy nhiên, người viết xin lưu ý lại rằng
di truyền học
không phải vấn đề đơn giản, không chỉ là một vài haplogroup là nói hết
được. Số lượng
mẫu của các nghiên cứu cũng còn ít. Chưa kể là khi có kết quả phân
tích, thì việc rút
ra kết luận lại cũng có nhiều tranh cãi (do đó, không phải ai kết luận
gì cũng chấp nhận được ngay). Vì vậy, những bản đồ gien người viết vừa dẫn chứng
cũng chỉ là giả
thuyết của một số nhóm nghiên cứu, và chỉ có tính tương đối. Bên cạnh
đó, lại có những lý do về chính trị, xã hội, khiến cho không phải nghiên cứu
nào cũng khách quan và cho dù khách quan cũng chưa chắc đã chính xác. Do đó,
luôn luôn cần phải thận trọng và có sự kiểm chứng.
c) Nhận định (sơ bộ) về mã
gien (Y-DNA) của một số dân tộc: người Lô Lô (người Di), người Tạng, người
Khương, người Choang và người Dao
Việc Chu Vũ Vương đánh thắng Đế Tân (Trụ
vương), theo lịch sử ghi lại, thì có công lớn của quân sư là Khương Tử Nha.
-
Họ
Khương姜 của Khương Tử Nha viết bằng
bộ Nữ女. Theo truyền thuyết thì Thần Nông vốn họ Khương姜 [84], có thể là tổ tiên của Khương Tử Nha (khó
biết đúng sai). Sau khi nhà Chu nắm được chính quyền, thì Khương Tử Nha được
phong cho đất Tề, gọi là Tề Thái Công. [63] (vài trăm năm sau nước Tề đổi chủ
nên còn có 1 vua Tề Thái Công khác, nhưng họ Điền)
-
Ngoài
nước Lã (đã phân tích ở trên), đầu thời Chu còn có nước Thân và nước Hứa có vua họ Khương姜. Sau này cả 3 nước về sau đều bị nước Sở thôn tính vào thời Xuân Thu. [85]
-
Xét
vị trí địa lý, các nước Lã, Thân, Hứa đều ở Hà Nam, như vậy họ Khương姜 này ở vùng Hà Nam, gần sông Lạc.
Ở Trung Nguyên lại có 1 dân tộc gọi là người
Khương羌 cổ (viết bằng bộ Dương羊), cũng từng được gọi là Tây Khương. [86]
-
Không
rõ họ Khương姜 của các nước Thân, Tề, Hứa,
Lã có cùng tộc với người Khương羌, hay chỉ là đồng âm? Có thể
cả 2 cùng 1 gốc, nhưng vì cách biệt quá lâu nên không biết là cùng gốc? Chuyện
quá xưa, bàn thêm vậy thôi chứ khó mà làm rõ được.
-
Đến
thời Tam Quốc, người Khương羌 có xuất hiện như một thế lực
quân sự ở miền Tây Bắc Trung Nguyên, và có tham gia vào lực lượng của Mã Siêu (sau về với Thục Hán).
-
Người
Khương羌 ngày xưa được xếp vào ‘Ngũ Hồ’ (Hung Nô, Yết, Đế, Tiên Ti,
Khương). [88] Tuy nhiên, sự phân loại này chủ yếu dựa vào văn hóa và vị trí địa
lý, có tính chủ quan. Chứ thời xưa chưa có xét nghiệm DNA, nên khó mà chính xác.
Do đó, việc nhận định họ thuộc nhóm người phương Nam hay phương Bắc cần phải thận
trọng.
Ngày nay, ở Trung Nguyên cũng có một dân tộc gọi
là người Khương羌.
-
Người
Khương羌 ngày nay tự nhận mình là người
Khương羌 thời Tam quốc. [89]
-
Theo
wikipedia về Y-DNA
haplogroups của một số nhóm người ở Đông và Nam Á, thì người Khương ngày nay
có Y-DNA chủ yếu thuộc nhóm O, kế đó là nhóm D, chứ thực ra lại gần như hoàn
toàn không có nhóm C và N. [83] Như vậy, có lẽ có thể xem người Khương hiện đại
là sự hòa huyết của người Tạng và Bách Việt (không có ảnh hưởng của người Mông
Cổ, Siberia)
-
Cũng
theo wikipedia về người Khương: ‘Phần lớn
người Khương theo tín ngưỡng đa thần, gọi là Ruism, một tín ngưỡng với niềm tin
vào các viên đá trắng, được thờ phụng như là tượng trưng cho thần Mặt Trời sẽ đem lại điều may mắn cho các mặt của cuộc sống
thường nhật của người Khương.’ [89] Như vậy, đây là một dấu hiệu về văn
hóa, tín ngưỡng cho thấy họ có thể cũng thuộc Bách Việt.
Về người Tạng (Tây Tạng):
-
Cũng
theo wikipedia về Y-DNA
haplogroups của một số nhóm người ở Đông và Nam Á, thì người Tạng (Tây Tạng hay
Tibet) có mã gien chủ yếu là haplogroup D, kế đó mới là nhóm O như
Bách Việt (và một phần nhóm N, có lẽ xuất hiện từ khi người Mông Cổ xâm nhập
Tây Tạng). [83] Như vậy, có khả năng tổ tiên người Tây Tạng thuộc nhóm D, và
người Tây Tạng ngày nay là sự hòa huyết của người Tây Tạng cổ xưa và Bách Việt.
Ngày nay ở Việt Nam và Trung Quốc cũng có 1 dân
tộc, gọi là người Lô Lô (còn gọi là người Di).
-
Ngày
nay người Lô Lô sống chủ yếu ở Tứ Xuyên, Vân Nam, Quý Châu, Quảng Tây. Ở Việt
Nam cũng có tại khu vực vùng núi phía Bắc Việt Nam. Wikipedia về người Lô Lô cho biết một số người cho rằng
người Lô Lô cũng xuất phát từ người Khương cổ. [90]
-
Theo
wikipedia về Y-DNA
haplogroups của một số nhóm người ở Đông và Nam Á thì có gien chủ yếu thuộc haplogroup O (Y-DNA), có một
ít nhóm C, không hoặc rất ít nhóm N. [83] Như
vậy, họ có điểm chung với người Khương ở nhóm O, và như vậy, có lẽ cũng có thể
xem họ là Bách Việt Trung Nguyên.
-
Trong
quyển ‘The secret Doctrine’ (quyển 2, trang 280), bà
Blavatsky có viết như sau: “Could the most ancient MSS. in the Lolo language (that of
the aborigines of China) be got at and translated correctly, many a priceless
piece of evidence would be found.”. [91] Tạm dịch: “Nếu
ngôn ngữ Lô Lô (những người bản xứ của vùng Trung Nguyên) có thể được hiểu và dịch
đúng, nhiều bằng chứng vô giá có thể được tìm ra.”
Về người Choang và người Dao:
-
Theo
wikipedia về Y-DNA
haplogroups của một số nhóm người ở Đông và Nam Á, thì cả 2 dân tộc này đều có mã
gien chủ yếu là nhóm O và một phần nhỏ nhóm C, không có hoặc hiếm nhóm N. [83]
-
Như
vậy, họ cũng là Bách Việt Trung Nguyên.
d) Về sự giao thoa giữa Bách
Việt và người Hồ
Như vậy, theo những chứng cứ về ngôn ngữ cũng
như di truyền học, Trung Nguyên có thể xem là cực bắc của Bách Việt, là nơi
giao thoa giữa Bách Việt và người Hồ phương Bắc. (Xin lưu ý rằng người viết
dùng chữ ‘người Hồ’ không có ý miệt thị, mà đây là 1 danh từ đã có sẵn trong lịch
sử, nên dùng để gọi vậy thôi.) Tuy nhiên, thời điểm diễn ra sự giao thoa với nhóm người Hồ phương Bắc
thuộc nhóm N và C2 (Mông Cổ, Siberia) thì cần phải được xem xét thêm.
Thời nhà Thương:
-
Thời
nhà Thương rất xa xưa, do đó không có khái niệm một nhà nước cai quản được toàn
bộ lãnh thổ một cách chặt chẽ như ngày nay. Giáp cốt văn đã cho biết tên gọi của
nhà Thương là Đại Ấp Thương, hay Thương Ấp, tức là một nước ở một vùng mà thôi,
chứ không phải là cai trị toàn bộ vùng Trung Nguyên.
-
Như
tác giả Nhạn Nam Phi đã chỉ ra trong bài ‘Bách Việt sử: Những lớp bụi mờ
của lịch sử’:
chữ Thương/Shang hay Sở (Sơ-Tân-Lang) hay Dạ-Lang, Lan-Shan… đều là những cách
gọi hơi khác nhau một chút của Văn-Lang [37] (tất cả đều nghĩa là ‘Sáng’ như
bài viết này chứng minh) mà người Việt ngày nay sử dụng. Thời đó không có một
biên giới và một nhà nước tập quyền từ Nam tới Bắc, mà chỉ có một sự di cư của
người Bách Việt với những dấu vết còn lại như vậy về mặt ngôn ngữ, trải dài từ
bán đảo Đông Dương đến Hoa Nam và cả Hoa Bắc… Như vậy, tất cả đều là những quốc gia hay nhóm người
khác nhau thuộc cùng một đại chủng Bách Việt (mà tác giả Bình Nguyên Lộc cho là
Proto-Malay). Nhưng dĩ nhiên là thời xưa chưa có chữ viết, sách vở,
ký ức dân tộc thuộc loại truyền miệng, thì dễ dàng quên lãng sau vài trăm hay
vài ngàn năm. Mỗi nhóm Việt lại tiến hóa, phát triển trên những địa bàn khác
nhau, tạo nên những sắc thái khác nhau, khi có đụng chạm về quyền lợi dẫn đến
chiến tranh, thì lại gọi nhau là ‘giặc’ và sự thù hằn dẫn đến cho rằng khác chủng
tộc là chuyện bình thường.
-
Nói
chung, nhà Thương ở quanh vùng Hà Nam (phía Nam sông Hoàng Hà) có thể được xem
là quốc gia ở cực Bắc của đại chủng Bách Việt tại thời điểm này.
Nguồn gốc nhà Chu:
-
Người
Hồ phương Bắc ngày xưa thường được xem là gồm 5 nhóm, gọi là ‘ngũ Hồ’, nên lịch sử vùng Trung
Nguyên đã có thời kỳ gọi là ‘Ngũ Hồ thập lục quốc’, hay ‘Ngũ Hồ loạn Hoa’.
[88] (xin lưu ý đây không phải khái niệm ‘tứ Di’)
-
Theo
wikipedia về người Đê (một trong 5 tộc Hồ), thì: ‘Theo truyền
thuyết, các tổ tiên của nhà
Chu đã sinh sống giữa người
Nhung và người Đê trong 14 thế hệ, cho đến khi Cổ Công Đản Phủ lãnh đạo họ
di chuyển đến Thung lũng sông
Vị và gây dựng nên kinh đô của mình gần Kỳ Sơn (trước 1107 TCN).’ [92]
-
Như vậy, họ Cơ姬 nhà Chu xuất phát từ Thiểm Tây (phía Tây nhà Thương), và ở lẫn
với các bộ lạc du mục. Điều này rất phù hợp với giả thuyết rằng họ Cơ姬 của vua nhà Chu mang 2 dòng máu Bách Việt và Hồ. Do đó sự thay đổi
ngôn ngữ vùng Trung Nguyên chỉ bắt đầu xuất hiện từ thời Chu (nhưng đa số người
dân và ngôn ngữ vẫn là phương Nam chủ đạo, sự thay đổi về ngôn ngữ diễn ra rất
chậm chạp và qua một thời gian rất dài).
-
Thời
Chu có một bộ tộc gọi là Khuyển Nhung. Nhóm này đã giết vua Chu U Vương, khiến
nhà Chu phải dời đô ở gần Tây An sang Lạc Dương ở phía Đông, nên đời sau gọi là
thời Đông Chu. Theo wikipedia về Khuyển Nhung, ‘Khuyển Nhung
tự xưng tổ tiên là hai con chó trắng (Bạch Khuyển), sùng bái vật tổ chó trắng, họ được phân loại là bộ
tộc du mục của người Khương ở phía tây và là kẻ thù lớn của tộc Viêm Hoàng…Tương truyền, Khuyển Nhung bị Tần diệt.
Một bộ phận dân Khuyển
Nhung di cư lên phía Bắc và trở thành một trong những chi sớm nhất của dân Hung
Nô, Mông Cổ sau này. Sau này người Đột Quyết và Mông Cổ cũng hay lấy
chó sói là đồ đằng của họ, có lẽ là ảnh hưởng từ Khuyển Nhung.’ [93]
-
Năm 2004, xuất hiện
1 tiểu thuyết ‘Totem sói’ của nhà văn Khương姜 Nhung戎 (tên thật
Lã呂 Gia嘉 Dân民). Tiểu
thuyết này gây tranh cãi, vì cho rằng người Mông Cổ thờ vật tổ là chó sói, [94]
nhưng người Mông Cổ phủ nhận điều này. Tuy vậy, nếu người Mông Cổ có nguồn gốc
từ Khuyển Nhung, thì điều này có thể là đúng, nhưng cũng từ rất xa xưa rồi, trước
khi có cái gọi là ‘nước Mông Cổ’. (Lưu ý rằng người Khương hiện tại gần như không có liên hệ về Y-DNA với người
Mông Cổ và Siberia như đã trình bày, nên ngày xưa phân loại Khuyển Nhung vào
nhóm người Khương có lẽ là do vị trí địa lý sinh sống chứ không đúng về mặt di
truyền.)
Đến thời Đông Chu (bao gồm Xuân Thu và Chiến Quốc),
thì nước Tần và nước Yên là 2 nơi giao tiếp cũng như sống chung với nhiều người
Hồ.
-
Theo
wikipedia về Tần Phi Tử, ông vua khai quốc nước Tần, thì ông có
tài chăn ngựa và khiến ngựa sinh sôi nhiều (như vậy khả năng mang dòng máu du mục
phía Bắc là cao). Chu vương giao cho ông nuôi ngựa, và sai đi phủ dụ, tức là sống chung với các bộ tộc
Nhung ở phía Tây, trong đó có Khuyển Nhung. [95] Như vậy, đất Tần nằm ở 2 sông
là Thiên Thủy và sông Vị, tỉnh Cam Túc và Thiểm Tây ngày nay, là nơi có nhiều người Khuyển
Nhung, tổ tiên của Mông Cổ và Hung Nô, sinh sống.
o
Sau
này Tần Thủy Hoàng thôn tính các nước, cùng với Lý Tư cho ‘đốt sách chôn nho’,
nhằm dập tắt tự do ngôn luận, tiêu diệt các chính kiến và tư tưởng khác với
mình. Lý Tư đề xuất như sau: Tất cả sách sử trừ của Tần đều đem đốt. Trừ cơ
quan có quyền giữ sách, ai có Kinh Thư, Kinh Thi hay sách của Bách gia chư tử đều
phải đem tới cơ quan nhà nước để đốt. Ai dám bàn Kinh Thư sẽ bị xử tử công
khai. Ai dám dẫn chuyện xưa để chỉ trích hiện tại sẽ bị xử tử cả nhà… [96] Sự
kiện này chắc chắn đã gây ảnh hưởng rất lớn đến ngôn ngữ thời đó, dẫn đến việc
sau này nhà Hán tìm người đọc hiểu Kinh Thư thì chỉ có 1 vài người hiếm hoi mà
chưa hẳn đã hiểu đúng.
-
Còn
về nước Yên: nước Yên thời Xuân Thu nằm ở vùng đất là Bắc Kinh và phía Bắc
tỉnh Hà Bắc ngày nay. Nếu nước Tần tiếp xúc với người Khuyển Nhung, thì nước
Yên ở phía Đông Bắc Trung Nguyên tiếp xúc với người Sơn Nhung. [97] Theo wikipedia
về người Sơn Nhung, thì
họ là dân du mục phía Bắc Trung Nguyên, cũng được xem là người Khuyển Nhung, sống
gần tộc Đông Hồ, và là tổ tiên của người Tiên Ti và Ô Hoàn. [98] Người Tiên
Ti sau cũng được xếp
vào nhóm ‘ngũ Hồ’, thuyết cũ cho rằng ngôn ngữ của họ thuộc ngữ hệ Turk, tức là
Đột Quyết, sau có thuyết cho rằng thuộc ngữ hệ Mông Cổ. [99] Nói chung cả 2
thuyết đều cho thấy họ thuộc nhóm phương Bắc.
Sau thời Tần, qua thời Hán:
-
Sau
khi nước Tần thôn tính Trung Nguyên, thì rất nhiều người không phục, đứng lên
chống Tần.
o
Đầu
tiên là khởi nghĩa của Trần Thắng. Trần Thắng là người Dương Thành, tỉnh Hà Nam,
như vậy là thuộc Bách Việt. [100]
o
Lưu Bang là người
huyện Bái, thuộc Từ Châu, tỉnh Giang Tô ngày nay, tức là ở hạ lưu sông Trường
Giang, và cũng là người nước Sở. [102] Như vậy, có thể là người Bách Việt.
-
Hạng
Vũ và Lưu Bang diệt Sở, cuối cùng Lưu Bang thắng Hạng Vũ và lên ngôi, lập ra
nhà Hán kéo dài 400 năm. Như vậy, nhà Hán thực ra lại là một triều đại Bách Việt.
Người Hán tự gọi mình là ‘người Hán’, thực ra phải xem đây là cách gọi về ‘quốc
tịch’, chứ không phải là sự phân biệt về một dân tộc riêng. Nhưng về sau, thuật
ngữ ‘Hán nhân’ lại dần được hiểu như một chủng tộc riêng, đây là một sự nhầm lẫn.
Nếu nói cho đúng, thì chỉ có thể xem ‘Hán tộc’ là một phần của đại chủng Bách
Việt (hay Cổ Mã Lai).
-
Vào
thời Hán, người Hung Nô phương Bắc (Mông Cổ,
Siberia) cũng bắt đầu trở nên mạnh lên và bắt đầu xâm nhập Trung Nguyên. Theo
wikipedia, thì người Nam Hung Nô sau này bị ‘Hán hóa’. [103]
(Tuy nhiên, thuật ngữ ‘đồng hóa’ chỉ có thể đúng về mặt văn hóa, chứ thực ra
không đúng về mặt di truyền học. Bởi lẽ Y-DNA thì cứ truyền theo dòng cha, còn
mtDNA thì cứ truyền theo dòng mẹ, bất chấp văn hóa, ngôn ngữ.)
o
“Năm 216, Tào Tháo bắt
giữ Thiền vu cuối cùng của Nam Hung Nô là Hô Trù Tuyền thiền vu,
phái Hữu Hiền Vương là pháp ti giám
quốc, Nam Hung Nô phân thành 5 bộ là tả, hữu, nam bắc, trung, an trí tại dải đất
Thiểm Tây, Sơn Tây, Hà Bắc.”
[103]
o
Như vậy, về mặt lịch sử có thể thấy rõ mã gien của người Hung Nô
phương Bắc đã hòa vào vùng Hoa Bắc vào thời nhà Hán. (và Tào Tháo có góp phần
vào việc đó)
Thời nhà Tấn, loạn ngũ Hồ và nhà Tùy:
-
Thời
nhà Tấn, một số người Hung Nô đã Hán hóa một phần nổi dậy, lập nước Hán Triệu, cũng gọi là Hung Nô Hán hay Hồ Hán, đứng đầu là
Lưu Uyên [104] (Lưu Uyên tự xưng là hậu duệ của thiền
vu Hung Nô [105]). Hán Triệu đánh hạ được kinh đô Lạc Dương, giết Tấn Hoài Đế
và Tấn Mẫn Đế. [104]
-
Đây
chính là khởi đầu của một thời kỳ dài từ năm 304 đến 439, gọi là ‘Ngũ Hồ thập lục quốc’, tức là các tộc Hồ xâm lược
Trung Nguyên, chia thành hơn 16 nước, chinh chiến xảy ra liên miên (và dĩ nhiên
là sự hòa huyết của các dân tộc ở vùng Hoa Bắc). [106]
-
Đến
năm 439, người Tiên Ti (một trong ngũ Hồ) thôn tính được các nước phương Bắc,
trở thành Bắc Ngụy, đối trọng với Nam triều, trở thành thời kỳ ‘Nam-Bắc triều’. [107] Đến năm 581, người
Tiên Ti thôn tính luôn Nam triều, trở thành nhà Tùy, sáng lập là Tùy Văn Đế. [108] Tùy Văn Đế tên Hán là Dương Kiên, nhưng tên thật Tiên Ti
là Fuluruqen, biệt danh Nryana hay Na La Diên. [109]
-
Như
vậy, nhà Tùy
là nhà nước của người Tiên Ti nắm quyền.
Như vậy nhà Thương là Bách Việt nắm quyền và nhà Chu, Tần là Hồ nắm quyền
thì có gì lạ? Đại đa số người dân vùng Trung Nguyên vẫn là Bách Việt (di truyền
học cho thấy điều đó), nhưng giới cầm quyền thì thay đổi, và gien di truyền
cũng như các yếu tố văn hóa cũng thay đổi theo thời gian.
Đến thời nhà Đường thì có loạn An Sử:
-
Loạn
An Sử từ năm 755 đến 763, do An Lộc Sơn và Sử Tư Minh cầm đầu. Cả 2 đều là người Đột Quyết, và đều xưng
là Yên Đế trong thời gian nổi dậy. [110]
-
Trước
cuộc loạn, nhà Đường thống kê nhân khẩu được khoảng 53 triệu người, nhưng sau
đó chỉ còn 7 triệu! [110] (lưu ý là con số thực tế sẽ cao hơn thống kê, nhưng
con số này cũng cho biết được mức độ tàn phá và chết chóc khủng khiếp của thời
kỳ này)
-
Quân
đội An Lộc Sơn đa số là người Hồ, Đột Quyết. Do đó đợt loạn này cũng làm ảnh hưởng
khu vực Trung Nguyên rất lớn, đặc biệt là vùng Hoa Bắc. Kinh đô Trường An (Trường
An ở Thiểm Tây, có vẻ phong thủy nơi này không tốt, những lần đặt kinh đô ở đây
thường đều bị chiến loạn lớn) bị tàn phá nặng nề, phải dời qua Lạc Dương. Kinh
tế và văn hóa bị dịch chuyển xuống phía Nam.
Sau thời Đường, Trung Nguyên lại phân rã thành
nhiều nước, gọi là thời kỳ ‘Ngũ đại thập quốc’ (907-979) thời nhà Tống. [111]
-
Năm 1115, Hoàn Nhan A Cốt Đả thống nhất các bộ lạc Nữ
Chân, lập ra nhà Đại Kim. Đến năm 1127, Kim diệt Bắc
Tống, đóng đô ở Bắc
Kinh, làm chủ
được toàn bộ vùng Hoa Bắc. [112]
-
Không
những vậy, người Nữ Chân còn tạo ra ‘Sự biến Tĩnh Khang’ là một vết nhục lớn của
vùng Trung Nguyên. Theo wikipedia về sự kiện này: “Một số hoàng
tử và công chúa bị giết, nhiều thê thiếp, công chúa và quận chúa của nhà Tống bị
quân Kim chiếm đoạt và cưỡng hiếp… 2 vua Tống phải mặc áo xô gai vào lạy ở miếu Kim Thái Tổ Hoàn Nhan A Cốt Đả rồi bị giải
vào triều, bị vua Kim làm nhục. Các thê thiếp, công chúa của 2 vua cũng bị làm
nhục, phải mặc áo lông cừu để lộ phần trên cơ thể rồi vào vái lạy ở miếu Kim
Thái Tổ… Để tăng thêm sự sỉ nhục, khoảng 300 thê thiếp hoặc công chúa, quận
chúa nhà Tống bị nhà Kim bắt đến Tẩy Y viện (洗衣院) làm tạp dịch,
nhiều người trong số đó còn bị bắt làm kỹ nữ phục vụ cho quý tộc, tướng lĩnh
nhà Kim hoặc bị quý tộc nhà Kim nạp làm thê thiếp, thậm chí bị đem ban thưởng
như chiến lợi phẩm.” [113]
-
Như
vậy, đây là một lần hòa huyết ở vùng Hoa Bắc với người Nữ Chân ở phương Bắc.
Người Nữ Chân tức là người Mãn Châu.
Các thời kỳ sau:
-
Đến
thời nhà Nguyên, thì người Mông Cổ làm chủ
toàn bộ Trung Nguyên (1271-1368), cả Hoa Bắc lẫn Hoa Nam. [114]
-
Thời
nhà Minh, vua thứ 3 của nhà Minh là Minh Thành Tổ Chu Đệ, có thuyết cho là con của một phi tần người
Triều Tiên sinh ra. Ông mang tước Yên Vương, xây dựng được thế lực mạnh mẽ nhờ
sự hợp tác của nhiều bộ lạc Mông Cổ. Sau khi cướp được ngôi vua, ông cho thanh
trừng trên quy mô rất lớn hoàng tộc họ Chu cũng như gia đình các đại thần trung
thành, khoảng 2 vạn người trở thành nạn nhân. Chu Đệ cho dời đô từ Nam Kinh đến Bắc Kinh (đất Yên cũ). [115]
-
Rồi
đến cuối thời Minh, người Nữ Chân lại thống trị Trung Nguyên một lần nữa, trở
thành triều đại Mãn Thanh cho đến thế kỷ 20. [116]
a) Vài điều quan trọng về trống
đồng
Điều đầu
tiên cần phải nhấn mạnh, đó là: trống đồng không phải ‘đặc sản’ riêng của Việt Nam!
-
Bắc Việt Nam
và Tây Nam Trung Quốc (đặc biệt là tỉnh Vân
Nam và khu
tự trị người Tráng ở Quảng Tây là hai vùng nơi đại đa số
các trống đồng cổ đã được tìm thấy. Theo một báo
cáo năm 1988, Trung Quốc đã tìm được 1460 trống đồng (??)[3]. Tổng số trống đồng tìm được ở Việt Nam
cho đến năm 1980 là 960 chiếc, trong đó có 540 chiếc thuộc loại trống đồng Đông Sơn
và 420 chiếc thuộc trống
đồng Ngọc Lũ[4].
-
Ngoài
ra, trống đồng còn được tìm thấy ở nhiều nước khác như: Indonesia,
Thái Lan, Myanma,
Lào,
Campuchia,
Malaysia,
Philippines và Nhật
Bản.
Việc tìm
thấy trống đồng ở Trung Quốc là dễ hiểu, vì người Việt từng sống ở vùng đất
Trung Nguyên như đã chứng minh. Nhưng việc tìm thấy trống đồng ở cả các cách biển
như Malaysia, Philippines, Indonesia và Nhật Bản thì vấn đề không hề đơn giản.
Trong
bài báo khoa học ‘Bronze
Drum in Selangor (Malaysia): The Motif and Significance from Archaeological
Perspective’ đăng trên ResearchGate, các tác giả người
Malaysia (Adnan Jusoh, Zuliskandar Ramli, Nik Hassan Shuhaimi Nik Abdul Rahman)
cho rằng trống đồng được tìm thấy ở Penisular Malaysia là nguyên mẫu
(stereotype) của trống đồng Heger I được tìm thấy ở Đông Sơn, Việt Nam. [118]
Như vậy, người Việt thì cho rằng trống đồng xuất xứ từ Việt tộc, còn người
Malaysia thì cho rằng trống đồng xuất xứ từ Malaysia.
Có 2 việc
nên làm, đó là:
-
Mở
rộng tầm nghiên cứu về Việt tộc ra khỏi vùng đồng bằng Bắc bộ để có cái nhìn
bao quát hơn. Việt tộc vĩ đại và to lớn hơn mảnh đất Bắc bộ nhiều. Giả thuyết
người Việt phát tích từ đồng bằng Bắc bộ (thuộc nhóm di truyền haplogroup nào? xuất
hiện từ khi nào, 4000 năm? Con người tiến hóa hàng triệu năm mà nguồn gốc 1 dân
tộc chỉ có 4000 năm sao?...) không khác gì thuyết Hoa tâm của người Trung Quốc,
đó là những giả thuyết bị ảnh hưởng bởi ‘lòng tự tôn dân tộc’, và cần phải
tránh trong nghiên cứu khoa học.
-
Nghiên cứu thêm giả thuyết rằng Bách Việt là 1
đại tộc bao trùm toàn bộ Đông Á và Nam Á ngày xưa. (tương tự thuyết ‘nguồn gốc
Mã Lai’ của tác giả Bình Nguyên Lộc)
Vấn đề
quan trọng kế đến, là xét lại tuổi của các trống đồng.
-
Thông
thường, ở Việt Nam, mỗi khi tìm ra được 1 trống đồng, người ta lại mời ‘nhà chức
trách’ đến, với các ‘chuyên gia’ để xác định tuổi cho trống đồng, thí dụ như
‘khoảng 2000-2500’ tuổi. Tuy nhiên, đến lúc này, người viết chưa tìm được tài
liệu nào nói về phương
pháp mà các ‘chuyên gia’ xác định tuổi cho trống đồng! Nếu không
công bố phương pháp, thì làm sao biết các ‘chuyên gia’ đó nói đúng hay sai?
-
Trong
khảo cổ học, có 1 phương pháp định tuổi vật chất bằng phóng
xạ các-bon C14
(radiocarbon dating). Phương pháp này được xem là khá chính xác, nhưng chỉ áp dụng
được cho chất hữu cơ (chứa carbon), hoàn toàn không áp dụng được cho vật thể kim loại như trống
đồng. [119]
-
Trong
sự hiểu biết của người viết, thì cho đến nay trên thế giới vẫn chưa có phương
pháp xác định tuổi của vật kim loại. Vậy để xác định tuổi trống đồng (hay vật
kim loại nói chung) thì người ta làm sao? Người ta đoán! Thí dụ như người ta tìm được
trống đồng ở 1 di tích cùng với một vật thể hữu cơ (thí dụ 1 mảnh gỗ) mà người
ta đã xác định (bằng phóng xạ carbon hay cách nào đó) được là 2000 năm tuổi,
thì người ta đoán trống đồng đó khoảng 2000 năm tuổi! Có thể xem là
‘đoán có cơ sở’. Đây cũng chính là
cách đoán tuổi trống đồng được sử dụng trong nghiên cứu khoa học ‘Bronze Drum in Selangor
(Malaysia): The Motif and Significance from Archaeological Perspective’ đã nhắc đến.
-
Cách
làm đó nghe có vẻ có lý, nhưng có 1 lỗ hổng vô cùng nghiêm trọng. Giả sử chiến
tranh thế giới xảy ra, toàn bộ 1 thành phố ở Việt Nam bị phá hủy, toàn bộ sách
vở thời nay bị xóa sạch. Sau 1000 năm (tức là năm 3020 AD), người ta đào ra 1 di
tích một căn nhà xác định được là 1020 tuổi, và tìm thấy trống đồng trong đó. Rồi
kết luận: ‘trống đồng khoảng 1020 năm tuổi, và được đúc vào khoảng năm 2000 AD’.
Người đọc sẽ cảm thấy như thế nào? Kết luận đó sai quá mức đúng không? Vậy mà đó lại là cách ở Việt Nam ngày nay người ta kết luận
tuổi của trống đồng, nhưng không thấy ghi chú rằng ‘tuổi trống đồng
chỉ là ước đoán’, khiến cho không biết bao nhiêu người cứ tưởng rằng
các ‘chuyên gia’ có phương pháp khoa học định tuổi trống đồng chính xác lắm!
-
Với
các định tuổi gián tiếp như vậy, ta chỉ có thể kết luận là: vào những thời điểm
2000-2500 năm trước, cái trống đồng đã bị vùi xuống đất, chứ không thể khẳng định
là trống đồng đã được đúc vào khoảng thời điểm đó. Một cái trống đồng có thể đã
được đúc 1
năm, 50 năm, 200 năm… trước thời điểm nó bị chôn vùi xuống đất, thì
làm sao xác định tuổi của nó?
Nhu vậy,
tuổi của nhiều
trống đồng hoàn toàn có thể ngang hoặc vượt quá niên đại các nhà Thương, Chu, và thậm chí còn có thể là của 1 nền văn minh Bách
Việt trước đó, đã bị hủy diệt và chỉ còn lại các trống đồng là di tích (trong
phần tiếp theo sẽ nói về sự liên quan giữa Việt và Hỏa giáo, cho thấy giả thuyết
này là khả dĩ). Dĩ nhiên đây chỉ là 1 giả thuyết mở rộng chưa có bằng chứng,
nhưng nó hoàn toàn có thể là sự thật (và không có lý do nào mà chuyện đó không
thể xảy ra). Điều quan trọng là người ta cần phải nhìn nhận rằng không có
phương pháp khoa học cụ thể xác định tuổi các trống đồng, và điều mà người ta
làm từ trước đến nay chỉ là đoán.
Thêm 1 vấn
đề về ý
nghĩa thiên văn của trống đồng:
o
“về mặt thiên văn học, căn
nguyên của vũ trụ được thể hiện bằng Mặt Trời hay Cực Tinh—nằm ở trung tâm của
biểu tượng—với chòm sao Bắc đẩu quay xung quanh nó—trong biểu tượng được thể hiện
bằng chim, chấm, sóng. Biểu tượng này thấy trên trống đồng, tượng đài và miếu
thờ của người Tráng.” [120]
o
Người
viết đoạn đó ghi tên là Aethelwolf Emsworth, nhưng không ghi nguồn trích dẫn
cho nhận định của mình. Do đó, chưa có cơ sở để phân tích đúng hay sai. Nhưng
nói chung đây cũng
là 1 ý tưởng hay để tham khảo thêm.
-
Ở
Việt Nam cũng có 1 số tác giả tìm cách gán ý nghĩa về thiên văn cho trống đồng.
Thí dụ như bài viết ‘Trống đồng Đông Sơn: Thông điệp
nền nông nghiệp cổ đại’
của tác giả Trần Văn Đạt. [121]
o
Trong
bài này, ý nghĩa về thiên văn được thể hiện trong hình số 4: Âm lịch Việt
(trái) và bốn mùa (phải) trên trống đồng Ngọc Lũ. Tuy nhiên không có lời giải thích nào cho các hình
này. (theo ghi chú thì hình trích từ ‘Việt Nam văn minh sử’ của Lê Minh
Siêu)
o
Câu
“Số tia 12 chiếm đa số liên quan đến số
tháng trong năm”, thì người viết nhìn vào cái hình trống đồng minh họa ngay phía dưới đếm thì có 14 tia! Và hình
trống đồng của người Choang ở trên đã trích dẫn thì chỉ có 8 tia mà thôi.
o
Còn
câu “Hàng ngàn năm tr CN, Ai Cập cũng có
bộ lịch giúp hoạt động nông nghiệp ven sông Nile trước các thời tiết khắc nghiệt
như ngập lụt, hạn hán.” thì đá luôn câu trên “âm lịch… bắt nguồn từ văn hóa Bách Việt, mang đậm nét văn hóa nông nghiệp
lúa nước ở phương Nam”!
o
Trích
dẫn số (6) thì chỉ ghi là ‘Wikipedia.org’! Tác giả Trần Văn Đạt này ghi
kế tên mình chữ ‘PhD’, tức là Tiến sĩ, mà cách viết và trích dẫn không ổn chút
nào!
o
Người
viết trình bày những chuyện này không nhằm mục đích chỉ trích ông Trần Văn Đạt
(người viết hoàn toàn không quen không biết, đụng chạm gì cả), mà chỉ để nhấn mạnh
rằng khi đọc sách cũng như viết sách cần phải cẩn trọng. Có nhiều người cố gắng
gán ghép những nghĩa hay, đẹp, thậm chí là cao siêu cho lịch sử Việt cổ. Có thể
đó là lòng tự hào dân tộc đáng quý, nhưng điều đó ảnh hưởng không tốt đến việc
nghiên cứu khách quan, và sẽ ảnh hưởng đến những nghiên cứu khác.
-
Thiên
văn hay chiêm tinh là một môn khoa học cổ. Việc luận đoán cần có nền tảng vững
chắc và hiểu biết sâu về môn này.
b) Bái Hỏa giáo có liên quan
đến Việt?
Tác
giả Nguyễn Văn Huy từng trích dẫn quyền ‘Man:
Whence, How and Whither’, trong đó C. W. Leadbeater cho biết đạo thờ Lửa
(Zoroastrianism), còn gọi là Hỏa giáo hay Bái Hỏa giáo/ Hiên giáo do một tiền kiếp của
Đức Phật đầu thai thành Zarathushtra (Zoroaster) và lập giáo vào khoảng gần
30.000 năm trước tại Ba Tư cổ đại! [122] Các yếu tố thuộc về thần học chưa thể
kiểm chứng nên tạm thời không bàn đến, trong bài viết chỉ bàn về ý tưởng ‘thờ Mặt
trời’.
-
Đây
là tôn giáo thờ Lửa,
bởi vì Lửa là hình ảnh và biểu tượng của Mặt Trời. Trước đó, tôn giáo này cũng thờ các
vì sao (sao Mai/ Hôm – Venus) và Mặt trăng. [123]
-
Tôn
giáo này xuất phát từ Ba Tư, sau lan đến vùng Lưỡng Hà. [123]
-
Chiêm
tinh học có thể đã phát triển đến đỉnh cao tại nơi này. [122]
Người
viết chú ý đến điểm này, vì như đã trình bày và dẫn chứng nhiều lần: ý nghĩa cổ
xưa của chữ Việt có liên quan đến Mặt Trời (và cả Mặt Trăng), và Lửa. Ý nghĩa
này ăn sâu vào trong tiềm thức của các dân tộc Bách Việt qua nhiều ngàn năm, đến
nỗi mà đến thời cận đại, vẫn còn nhiều nhân vật sử dụng biểu tượng Mặt trời (có
thể là do tiềm thức):
-
Lá
cờ Đài Loan có hình một Mặt trời có 12 tia sáng trắng. [126]
Trong
quá trình tìm hiểu ý nghĩa của Việt qua giáp cốt văn, người viết phát hiện ra rằng
hình chữ Việt粤 và chữ
Dương昜 cổ rất
giống nhau, và rất giống biểu tượng
ngọn Lửa thiêng Atar của Hỏa giáo! [127]
-
Trên
tự điển từ nguyên online chữ Việt粤 lại có ghi rằng chữ Việt viết bằng “altar-kui亏 kuī”, tức là cho rằng chữ
Khuy亏
trong chữ Việt粤 thực ra là tượng hình cái bệ
thờ (giống như cái bệ giữ lửa trong biểu tượng Lửa thiêng của Hỏa giáo?). [45]
-
Tra
wiktionary chữ bệ thờ
‘altare’ (tiếng
Latin), có ghi rằng chữ này có khả năng (probably) có gốc từ chữ ‘adolere’,
nghĩa là ‘cháy’, hay ‘nơi cháy’! [128]
-
Thêm
1 điều thú vị nữa là chữ Dương dạng vẽ 1 tia sáng thì nhìn cũng giống biểu tượng Ankh của Ai Cập cổ. Người ta cho
rằng biểu tượng Ankh có nghĩa là ‘sự sống’! [129]
Những điều
này là trùng hợp hay là có những lý do mà ta chưa biết được?
Theo sự
tìm hiểu về di truyền học của người viết (đã trình bày ở phần trên), thì người
hiện đại từ châu Phi di chuyển đến vùng Lưỡng Hà, rồi tách làm 2 nhánh lớn:
-
Một
nhánh là ‘Hồ tộc’, di chuyển đến vùng Siberia. (nhánh này cũng có khả năng xuất
xứ từ phương Nam như một số giả thuyết khác)
-
Một
nhánh là ‘Bách Việt tộc’.
-
Như
vậy, rất có
khả năng tín ngưỡng tôn thờ Mặt trời và môn chiêm tinh đã được người Việt đem từ
vùng Lưỡng Hà đến Đông Á ngày nay. Người viết chưa có bằng chứng cụ
thể cho việc này (trừ sự giống nhau giữa ý nghĩa chữ Việt và Hỏa giáo), nhưng
tin rằng đây cũng là một hướng nghiên cứu nên được xem xét.
c) Một vài ý về Văn Lang,
vua Hùng và người Choang/ Tráng
Văn Lang (nhà Thương/Thang/Sáng) ngày xưa quá rộng
lớn (có lẽ tương đương với Trung Quốc ngày nay, hoặc có thể hơn nhưng lịch sử
chưa được làm rõ). Nhà Chu tuy đánh thắng Đế Tân (Trụ vương), nhưng cũng chỉ
chiếm đóng được một phần Văn Lang, phần ở phương Nam không phục, tự lập thành
nước Sở.
-
Ngày
nay nhiều tác giả, trong đó có Nhạn Nam Phi, đã chỉ ra rằng nước Sở cũng là Việt,
là Văn Lang. Nhờ đó mà ta biết được rằng các vua Hùng trong cổ sử Việt cũng
chính là các vua Hùng nước Sở. Chữ Hùng trong tên vua nước Sở viết là Hùng熊,
ví dụ như Sở Trang Vương xưng bá chủ Trung Nguyên có
tên thật là Hùng Lữ (熊旅), hay Mị Lữ (芈旅) [130]
-
Chữ
Hùng熊
này có một nghĩa là con gấu, nhưng viết bằng bộ Hỏa火, là lửa, nên có lẽ nghĩa xưa nhất chính là
‘hùng sáng’, ‘hừng sáng’,
‘sáng hửng’… ý là ánh sáng hừng hực của lửa. Rõ ràng âm ‘hùng’ này xuất
phát từ tiếng Nôm. Việt là ‘Sáng’, nên vua Sở (Việt cổ) cũng lấy tên gần nghĩa
‘Sáng’ là hợp lý.
-
Còn
chữ Hùng mang nghĩa ‘mạnh’ thì viết là Hùng雄. Tiếng
Trung viết ‘hùng mạnh’ là hùng雄 tráng壯.
-
Trong
‘Hậu hán thư’ có ghi chuyện nước Việt Thường dâng nhà Chu chim trĩ trắng. Theo
wikipedia Việt Thường: “Thời Tây Chu, vua nước Sở là Hùng Cừ phong cho con trai út của mình
là Chấp Tì (執疵) đất Việt Chương (越章). Theo
Đào Duy Anh trong tiếng Trung Quốc "Việt Chương" và "Việt Thường"
đồng âm với nhau, hai cái tên này chỉ là một, chỉ khác nhau về tự dạng, nước Việt
Thường chính là nằm trên đất Việt Chương.” [131] Như vậy, Việt
Thường từ nước Sở mà ra; mà Sở và Thương cùng 1 gốc, vậy thực ra là
Việt Thường hay Việt Thương?
-
Trong
bài ‘Phát hiện lại về Việt Nhân Ca’, tác giả Nhạn Nam Phi cho
biết rằng Trịnh Trương Thượng Phương bên Trung Quốc cho rằng ‘Việt Nhân Ca’ là bài
ca của người Choang. Tác giả Nhạn Nam Phi cho rằng điều đó không đúng, và đã chứng
minh bằng cách phục nguyên lại bài ‘Việt nhân ca’ bằng tiếng Việt, theo thể thơ
lục bát. [132]
-
Người
viết không biết tiếng Choang, nên không thể nhận xét vấn đề này. Nhưng có khả
năng vì người Choang cũng thuộc Bách Việt, có tiếng nói gần giống tiếng Sở (Việt),
nên Trịnh Trương Thượng Phương mới tưởng nhầm là tiếng Choang chăng? (tham khảo
thêm bài ‘Phát hiện lại về Việt Nhân Ca’ và ‘Phục nguyên Duy Giáp Lệnh của
Việt vương Câu Tiễn’)
d) Các chữ Minh明, Quang光 cho thấy nhà Chu là người Hồ
xâm chiếm Việt Thương (Văn Lang)
Như
đã trình bày ở trên, Minh明 có nghĩa là Sáng, và người viết còn đặt giả
thuyết rằng chữ Minh明 cổ âm
ngày xưa vốn là Sáng.
-
Trong
Tự điển Thiều Chửu, chữ Minh còn viết một nghĩa như sau:
o
Sang, sau (dùng cho một thời điểm).
Như minh nhật 明日 ngày mai, minh niên 明年 sang năm, v.v.
-
Tại
sao minh明
đã là ‘sáng’, mà lại còn là ‘sang’? 2 chữ ‘sáng’ và ‘sang’ rõ ràng khác nghĩa nhau.
-
Người
viết tin rằng lý do nằm ở chỗ người Hồ ngày xưa (tổ tiên người Hoa) không phân
biệt được 2 âm ‘sáng’ và ‘sang’ trong tiếng
Việt, do đó, khi nghe người Việt nói ‘sang ngày’, thì tưởng lộn thành ‘sáng ngày’, và do đó
đã dùng chữ Minh明 cho cả ‘sáng’ lẫn
‘sang’!
-
Điều
này góp phần củng cố giả thuyết chữ Minh明 ngày
xưa âm Nôm vốn lả ‘Sáng’.
-
Đồng
thời, cũng củng cố giả thuyết rằng đã có sự nhầm lẫn trong ý nghĩa của chữ ‘Việt’:
‘Việt’ nghĩa gốc là ‘Sáng’,
nhưng đã bị nhầm lẫn thành ‘Sang’, thành ‘Vượt’ chỉ vì quá gần âm và người Hồ không phân biệt
được các âm đó và làm lẫn lộn hết.
-
Sự
không phân biệt được các âm/ nghĩa dẫn đến sau này âm Sáng明 bị biến thành Minh明, trong khi lại có chữ Minh冥 nghĩa là tăm tối. Cùng một âm mà 2 nghĩa trái
ngược hẳn.
Về
chữ Thang湯 trong tên của vua Thang湯, trong
Kinh Thư còn ghi lại một câu khá kỳ lạ và đáng chú ý, đó là ‘vu于
Thang湯
hữu有
Quang光’ [133].
-
Câu
này thường được giải nghĩa rằng ‘so với vua Thang thì
còn Sáng (Quang) hơn’.
-
Câu
này xuất phát từ chuyện Chu Vũ Vương (Cơ Phát) sau khi đánh chiếm nhà Thương
(Văn Lang) thì khoe rằng “chiến công của ta so với vua Sáng (Thang湯) thì còn Sáng (Quang光) hơn”!
-
Người
viết cho rằng điều này có nghĩa là:
o
Giả
thuyết Thang湯 ngày xưa cũng có nghĩa là Sáng của tiếng Nôm được củng cố thêm. Vì có như vậy,
mới lấy chữ Quang光 ra
để so sánh với ý là Sáng.
o
Từ
thời Chu, người Hồ đã thay chữ Sáng湯 hay昜 bằng chữ Quang光!
-
Ngày
nay tiếng Việt cũng dùng cụm từ ‘thuốc thang’, tiếng Trung gọi là thang dược 湯藥. Cũng có khả năng từ chữ thang ~ dược, mà chữ
Diệt/Việt từ nghĩa sáng/thang đã bị nhầm thành dược/ vượt chăng? Trong mấy ngàn
năm có quá nhiều khả năng dẫn đến những sự nhầm lẫn.
Trong bài ‘Bách Việt
sử: Những lớp bụi mờ của lịch sử’, tác giả Nhạn Nam Phi đã chỉ ra rằng các vua nhà Chu
là người Hồ (đã sống lẫn và theo
văn hóa Việt tộc, nhưng cũng không nói tiếng Việt rành được), đã cướp chính
quyền Văn Lang (Thương) của họ Chử người Việt và đổi thành nhà Chu (nhưng chỉ chiếm được phần phía Bắc, còn một phần
Văn Lang là Sở ở phương Nam thì không quy phục): [37]
-
Những chữ viết trong Chung Đỉnh
văn và Giáp Cốt văn của khảo cổ học chứng minh được điều này, nhà Thương thôn
tính và đồng hoá người Siberia da trắng là “Trung Sơn quốc”, gọi là “Bạch –
Địch”, nói chung nhà Thương bao gồm Việt tộc và những ngoại tộc bị Việt tộc
đồng hoá, ngay cả tên của Trụ vương cũng được ghi chép lại là Đế Tân theo văn
phạm Việt chứ không phải là Tân Đế!
-
Triều nhà Chu cũng bị Việt tộc
đồng hoá; tộc Chu là tộc Khương đã liên kết với những tộc khác tiêu diệt nhà
Thương, trước khi lật đổ nhà Thương, thì trên bước đường đông tiến từ cao
nguyên phía tây tiến về trung nguyên là họ đã bị Việt đồng hoá rồi, và họ đổi
tên, xưng là: Chu周…và triều Chu tự xưng là
con cháu đích tôn của vua Vũ nhà Hạ để được “chính danh”; Chu tự xưng là “Hạ”
hay là “Hoa” – vì lẫn lộn phát âm giữa chữ Hoa và Hạ của tiếng Việt, tiếng
Khương của dân tộc Khương vẫn tồn tại cho đến ngày nay, cho nên khi đối chiếu
tiếng Khương với cổ sử và Tứ Thư, Ngũ Kinh v.v… thì sẽ thấy rõ Chu đã bị văn
hoá Việt của nhà Hạ và nhà Thương đồng hoá: bởi vì triều Chu đã không còn
dùng tiếng Khương như người dân tộc Khương hiện nay vẫn tồn tại và nói tiếng
Khương, và ngay cả việc nhà Chu phải nhận thầy và học hỏi từ nước Sở cũng ̣được
ghi rõ ràng trong chính sử. (điều này ghi rõ trong Sử ký của Tư Mã Thiên).
-
Nhà Hạ được xem là chính
danh, là Hoa = hoa nghĩa là “hoa lệ”, là “quí phái”, là tiến bộ – là quí
tộc, là thống lĩnh, là chính thống ở trung nguyên. Cho nên khi mà Chu muốn
gồm thâu thiên hạ qui phục với Chu thì phải tự xưng là “Hoa – Hạ”, ngay cái
tên “Hoa – Hạ” đã tự bộc lộ là bị đồng hoá rồi! Vì lẫn lộn “Hoa” và “Hạ”, bởi
vì là bị đồng hoá mà vẫn khó phân biệt phát âm của một ngôn ngữ “mới” đối với
họ, cho nên họ không phân biệt được “Hạ” là tên gọi Hoàng triều, và “Hoa”
là tên gọi của quí tộc theo lối phát âm tiếng Việt, cho nên mới có việc tự
xưng vừa Hoa lại vừa Hạ trong khi lẽ ra chỉ cần xưng là Hoa, hoặc chỉ xưng là
Hạ là được rồi! (Hoa = 華, Hạ=夏)
Nói chung:
-
Thời Hạ, Thương trước thời Chu là Việt, văn minh nông nghiệp.
-
Nhà Chu (đã sống lẫn và học từ Việt), cướp được một nửa Văn Lang
(Việt/Thương), còn một nửa không phục lập nên nước Sở. Có khả năng rất cao các
vua Chu là người gốc Hồ.
-
Trong thời Chu (bao gồm Xuân thu, Chiến quốc), đa số người dân ở
Trung Nguyên vẫn là Việt, nhưng sự cai trị của nhà Chu đã bắt đầu khiến ngôn ngữ
vùng Trung Nguyên có sự biến đổi. Sự thay đổi trong ngữ pháp của cách gọi ‘Đế
Tân’ trở thành ‘Trụ vương’ cũng như việc thời Hán không đọc được Kinh Thư do Khổng
Tử viết cho thấy điều này.
e) Nùng Trí Cao và Lý Thái
Tông nước Việt
Việc
Nùng Trí Cao và người Nùng muốn có 1 đất nước riêng cho người Nùng có thể xem
là mong muốn chính đáng. Nhưng điều này lại mâu thuẫn với Đại Cồ Việt vì lúc đó
đang là đất triều Lý, nên Lý Thái Tông phải đánh dẹp. Trí Cao bị đánh bại, Thái
Tông tha cho không giết, cho về tiếp tục cai quản, liên tiếp ba lần như vậy.
(Nhận xét: Lý Thái
Tông
được ghi nhận là vị vua có lòng nhân, có vẻ không sai. Và cách đối xử nhân đạo
với người dân tộc thiểu số, lấy đức phục nhân này có phần giống với cách Khổng
Minh thời Tam quốc đối xử với người Man trong chiến dịch hàng phục Mạnh Hoạch ở
phương Nam)
Sau
đó Trí Cao đánh lên phương Bắc, đặt quốc hiệu là Đại Nam. Ông đánh thắng nhiều
trận, chiếm được Ung Châu, Quảng Đông, Quảng Tây, khiến nhà Tống phải lo sợ.
Nhà Tống phải phái tướng tài là Địch Thanh đến đối phó. [17]
-
Lúc
này Lý Thái Tông dâng biểu sang Tống, nói xin phối hợp đánh Trí Cao, nhưng Địch
Thanh can vua Tống không đồng ý.
-
Năm
1953, Trí Cao bị Địch Thanh đánh bại, cầu cứu nhà Lý. Lý Thái Tông cho người đi
tiếp ứng Trí Cao.
-
Như
vậy, có khả năng Lý Thái Tông trước đã có hùng tâm phối hợp với Trí Cao đánh Tống,
nên giả tiếng đem quân giúp Tống rồi sẽ đánh Tống. Nhưng có lẽ Địch Thanh cảm
nhận được, nên đã ngăn lại.
-
Tiếc
là quân nhà Lý chưa kịp cứu viện thì Trí Cao lại bị đánh bại, phải bỏ chạy sang
Đại Lý. Đến năm 1055, Đại Lý không muốn gây hấn với nhà Tống nên bắt Trí Cao
đem nộp. Trí Cao tuy bại, nhưng là anh hùng, được người Choang, người Nùng tôn
thờ và kỷ niệm đến ngày nay.
f) Gia Cát Lượng và người Việt
phương Nam
Gia Cát
Lượng,
tự Khổng Minh, là một quân sư thời Tam quốc, làm đến chức tể tướng nước Thục. Khổng
Tử được người đời xưng tụng là ‘vạn thế sư biểu’ (nghĩa là vị thầy ngàn đời),
Khổng Minh dù không thể sánh bằng, nhưng cũng được gọi là ‘vạn đại
quân sư’
(nghĩa là bậc quân sư ngàn đời) [134]. Gia Cát Lượng sinh ở vùng Sơn Đông, như vậy
cũng là thuộc nước
Lỗ, có thể xem là ‘đồng hương’ với Khổng Tử. Như vậy, Gia Cát Lượng cũng
có khả năng thuộc Bách Việt.
Có
rất nhiều giai thoại hay về Gia Cát Lượng, trong số đó có chuyện ‘thất cầm Mạnh
Hoạch’, tức là nói về việc Gia Cát Lượng bình định phương Nam, bắt thủ lĩnh là
Mạnh Hoạch, thả ra rồi bắt lại như vậy bảy lần, khiến Mạnh Hoạch tâm phục khẩu
phục. Điều đáng nói là việc này trong tiểu thuyết ‘Tam Quốc diễn nghĩa’ của La
Quán Trung) chỉ hư cấu tình tiết, nhưng dựa trên sự kiện có thật. Trong sách ‘Tam Quốc Chí’ của Trần Thọ (được xem là
chính sử), sự kiện này được Bùi Tung Chi chú giải, trích từ sách lịch sử ‘Hán Tấn xuân
thu’
của Tập Tạc Xỉ, nhà Tấn,
nên khó mà có chuyện hư cấu để ca ngợi Gia Cát Lượng (vì Thục cũng là đối thủ
nhà Tấn) [135]. Wikipedia có một trang riêng về vấn đề này, gọi là Chiến dịch
Nam Trung.
[136]
Mạnh
Hoạch là người phương Nam, thông tin lai lịch không rõ ràng, tuy nhiên, wikipedia tiếng Anh cho biết
người Di xem ông là một trong những thủ lĩnh của họ (lưu ý: thủ lĩnh không nhất
định là cùng tộc). [137] Người Di hay còn gọi là người Lô Lô, là một
dân tộc ngày nay sống ở vùng Tây Nam Trung Quốc (Tứ Xuyên, Vân Nam, Quý Châu,
Quảng Tây), Thái Lan, Lào, Việt Nam. Khu vực của người Man thời Tam Quốc này ứng
với nước Điền và Nam Chiếu sau này, ngày nay là tỉnh
Vân Nam.
Sự
kiện Gia Cát Lượng bắt, thả Mạnh Hoạch bảy lần rất tương đồng với cách ứng xử của
vua Lý Thái Tông với Nùng Trí Cao (bắt thả ba lần). Cách lấy đức phục nhân này phát huy
hiệu quả trong cả hai trường hợp: Nùng Trí Cao không quấy rối Đại Cồ Việt nữa
mà đánh lên đất Tống, còn Mạnh Hoạch thì từ đó không tấn công Thục Hán nữa.
Vào
các thời nhà Tấn, Tùy, Đường, các nhóm người Hồ phương Bắc tấn công mạnh vùng Trung
Nguyên tạo ra những đợt chiến loạn rất lớn và kéo dài như ‘Ngũ Hồ
Thập lục quốc’, ‘Nam-Bắc
triều’,
‘loạn An
Sử’
(An Lộc Sơn – Sử Tư Minh). Theo tác giả Nguyễn Văn Huy, đây là lý do khiến cho
một bộ phận khá lớn người Việt vùng Trung Nguyên phải di cư xuống phía Nam và
Tây Nam Trung Nguyên, trong đó có tạo ra nước Nam Chiếu (sau nhiều nhóm lại di cư và
cùng với người vùng Nam Việt giành được độc lập, lập nên Đại Cồ Việt). [138]
Như
vậy, có khả năng vì cùng là Bách Việt mà Gia Cát Lượng đối xử nhân đạo với người
phương Nam (cũng như Lý Thái Tổ với người Nùng/Choang) chăng? Và nhờ cái nhân tốt đó, mà sau này người Việt Trung Nguyên di cư xuống
phương Nam được người bản địa chấp nhận chăng?
g) Âm Dương và môn Phong Thủy/
Địa Lý
Ta thấy rằng ý nghĩa chữ Âm Dương liên quan đến
cách chọn đất ngày xưa, có khả năng rất cao đó là một trong những luận điểm đầu
tiên của môn Phong Thủy/ Địa Lý.
Môn Phong Thủy/ Địa lý cho biết rằng nhà hướng
Nam là tốt. Và lý tưởng nhất là sau nhà (Huyền Vũ) có núi che chắn, trước nhà
(Minh Đường) có sông hoặc nước. (tạm thời bỏ qua khái niệm Thanh Long và Bạch Hổ)
Dễ dàng thấy được cách bố trí nhà như vậy có ít
nhất là 3 cái lợi:
-
Đầu
tiên là nhà sẽ sáng sủa quanh năm mà
không bị chói nắng trực tiếp (nhà hướng Đông thì chói buổi sáng, nhà hướng Tây
thì chói buổi chiều).
-
Thứ
hai là núi ở sau lưng nhà giúp che chắn gió bấc (Bắc) vào mùa Đông.
-
Con
người thường hay lập đô thị ở gần sông. Quay mặt về hướng sông thì mở cửa ra đường
là hướng ra đường lớn hoặc sông ngay, thuận tiện cho việc đi lại.
Theo cách bố trí này, khu đất của nhà nằm ở
phía Bắc dòng sông và phía Nam của ngọn núi, cho nên nhà thuộc Dương. Ngày nay nhà của người sống thường gọi là
‘Dương trạch’, người viết tin rằng
nghĩa đúng là xuất phát từ ý này (chứ không phải chỉ vì ‘nhà của người sống’
nên gọi là dương trạch).
Ngoài ra, ta cũng có thể lý giải được nguyên tắc
về hình – khí trong môn Phong Thủy/ Địa Lý thì đất núi là hình dương mà khí âm,
còn đồng bằng thì hình âm mà khí dương:
-
Về
hình dáng, thì núi cao nên là dương, đất bằng thấp nên là âm.
-
Nhưng
đất bằng thì sáng, nên nhiều dương khí, đất đồi núi thì lại âm u, nên nhiều âm
khí.
Những nguyên lý và hệ quả khác của môn Phong Thủy/
Địa Lý (cũng như tất cả những môn huyền học khác) cũng nên được phân tích và cắt nghĩa rõ ràng, hợp lý trước khi chấp nhận và
áp dụng. Không nên quá tin tưởng vào sách vở có sẵn, vì ai cũng có thể viết
sách được cả. Nhiều môn huyền học cổ xưa có tính khoa học cao, nhưng vì người
Trung Quốc đánh mất cái gốc Nôm sau nhiều lần bị người Hồ xâm lược, nên không
còn giải thích đúng, và theo thời gian sự sai lạc ngày càng tăng lên.
h) Tính tương đối của Âm
Dương
Dù không nằm trong ý chính của bài này, nhưng
vì nhân dịp giải thích Âm Dương, nên sẵn tiện giải thích luôn sự liên quan đến
điện toán máy tính (computing).
Âm và Dương trong điện toán máy tính là hai số
0 và 1. Hai số 0 và 1 này về mặt vật lý là 2 mức điện áp (trên linh kiện bán dẫn).
Mức 0 (ground) thật ra không phải là điện áp bằng
0, mà thực ra nó là mức tham chiếu trong mạch điện mà ta đang xét. Ví dụ như mức
0 có thể là +2V (so với mặt đất), mức 1 có thể cao hơn, là +12V chẳng hạn.
Cũng như vậy, Âm và Dương mang tính tương đối,
vì nó phải so sánh với nhau thì mới phân thành Âm và Dương. Chúng ta nói ‘Âm’
là tối, nhưng ‘cái bóng rợp’ không phải là sự ‘tối tuyệt đối’, mà chẳng qua là
sự ‘thiếu ánh sáng’ so với vùng xung
quanh có nhiều ánh sáng hơn mà thôi. Nếu ta xét 1 vùng ‘hơi tối’, và một vùng
‘rất tối’, thì cái vùng ‘hơi tối’ sẽ lại là dương so với cái vùng ‘rất tối’.
Sự chuyển động cũng vậy. Một vật được gọi là
chuyển động, khi nó chuyển động so với hệ quy chiếu mà ta đang xét. Nếu không
có hệ quy chiếu, thì không thể nói nó chuyển động hay đứng yên được. Có lẽ nếu
lấy Âm làm hệ quy chiếu (0), thì Âm là tĩnh, còn Dương là động (1) chăng?
Tóm lại,
khái niệm Âm Dương mang tính tương đối khi so sánh trong mối quan hệ giữa 2 vật
với nhau, chứ không có tính tuyệt đối.
Trong quá trình suy nghĩ, ta có người suy nghĩ,
sự việc đang nghĩ tới, và mối liên hệ giữa 2 cái đó. Có lẽ cũng liên quan đến
Âm Dương vậy.
(Ghi chú: tất cả các nội dung có đánh dấu nguồn
tham khảo đều đã để đường link, người đọc có thể nhấn trực tiếp vào để xem.)
[3]
[4]
No comments:
Post a Comment